Mục từ này cần được bình duyệt
Khác biệt giữa các bản “Zeolit”
 
(Không hiển thị 17 phiên bản của 2 người dùng ở giữa)
Dòng 1: Dòng 1:
 
{{mới}}
 
{{mới}}
'''Zeolit''' (cg. '''rây phân tử''') là khoáng chất silicat nhôm (aluminosilicat) hydrat hóa của một số [[kim loại kiềm]] và/hoặc [[ki loại kiềm thổ|kiềm thổ]], có cấu trúc tinh thể vi xốp với công thức tổng quát:
+
[[File:Senckenberg Zeolith.jpg|nhỏ|300px|Một khoáng chất zeolit tự nhiên, trong bộ sưu tập của Bảo tàng Senckenberg ở [[Frankfurt am Main]], [[Đức]]]]
:Me2/mO.Al2O3.nSiO2.xH2O
+
'''Zeolit''' (còn gọi là '''rây phân tử''') là khoáng chất [[silicat nhôm]] (aluminosilicat) hydrat hóa của một số [[kim loại kiềm]] và/hoặc [[kim loại kiềm thổ|kiềm thổ]], có cấu trúc [[tinh thể vi xốp]] với công thức tổng quát:
trong đó, Me là cation kim loại hóa trị m (Na, K, Ca, Mg…) đóng vai trò trung hòa
+
:Me<sub>2/''m''</sub>O.Al<sub>2</sub>O<sub>3</sub>.''n''SiO<sub>2</sub>.''x''H<sub>2</sub>O
điện tích âm của tứ diện AlO4 trong mạng tinh thể. Z được mô tả lần đầu tiên bởi
+
trong đó, Me là cation kim loại hóa trị ''m'' (Na, K, Ca, Mg…) đóng vai trò trung hòa điện tích âm của tứ diện AlO<sub>4</sub> trong mạng tinh thể. Zeolit thường được ứng dụng để làm vật liệu [[hấp phụ]] và hoặc [[xúc tác]] cho các quá trình [[hóa học]]. Zeolit được mô tả lần đầu tiên bởi nhà khoáng vật học Thụy Điển [[Axel Fredrik Cronstedt]] năm 1756. Tên gọi “zeolite” bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp ζέω (zéō), có nghĩa là “sôi” và λίθος (líthos) có nghĩa là “đá”, do khi nung nhanh zeolit, hơi nước bốc hơi giống như sôi.  
nhà khoáng vật học Thụy Điển Axel Fredrik Cronstedt năm 1756. Tên gọi
 
“zeolite” bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp ζέω (zéō), có nghĩa là “sôi” và λίθος (líthos)
 
có nghĩa là “đá” (khi nung nhanh Z, hơi nước bốc hơi giống như sôi). Phần lớn các
 
Z tự nhiên được hình thành là kết quả của phản ứng hóa học giữa dung nham núi
 
lửa và nước ngầm chứa các ion kiềm và kiềm thổ. Z tự nhiên thường bị pha lẫn bởi
 
các khoáng chất, kim loại, thạch anh hoặc hỗn hợp một số loại Z khác nhau. Các
 
khoáng vật chứa Z thường không màu hoặc có màu nhạt; độ cứng 3,5 – 5,5 (thang
 
độ cứng Mohs); khối lượng riêng 1,2 – 2,8 g.cm-3
 
. Vì các Z chỉ hấp phụ chọn lọc
 
một số phân tử có kích thước phù hợp nên chúng được gọi là “rây phân tử”.
 
  
Đến nay, trên 40 loại Z tự nhiên với các dạng cấu trúc khác nhau đã được phát
+
==Zeolit tự nhiên==
hiện, trong đó phổ biến hơn cả là clinoptilolite (Na2,K2,Ca)3Al6Si30O72·24H2O,
+
[[File:Heulandite-(Ca), mordénite 2.JPG|nhỏ|300px|Zeolit heulandite-Ca (màu hồng) lẫn với zeolit mordenite (màu trắng), khai thác từ Maharashtra, [[Ấn Độ]]]]
erionite (К2, Са, Na2)2Al4Si14O36.15Н2О, phillipsite (K,Na,Ca)1-2(Si,Al)8O16·6H2O,
+
Phần lớn các zeolit tự nhiên được hình thành là kết quả của phản ứng hóa học giữa dung nham núi lửa và nước ngầm chứa các ion kiềm và kiềm thổ. Zeolit tự nhiên thường bị pha lẫn bởi các khoáng chất, kim loại, thạch anh hoặc hỗn hợp một số loại zeolit khác nhau. Các khoáng vật chứa zeolit thường không màu hoặc có màu nhạt; độ cứng 3,5 – 5,5 ([[thang độ cứng Mohs]]); khối lượng riêng 1,2 – 2,8 g.cm<sup>-3</sup>. Vì các zeolit chỉ hấp phụ chọn lọc một số phân tử có kích thước phù hợp nên chúng được gọi là “rây phân tử”.
chabazite (Ca,Na2)Al2Si4O12·6H2O, faujazite (Na2,Ca,Mg)3,5Al7Si17O48·32H2O,
 
mordenite (Na2,K2,Ca)Al2Si10O24·7H2O, ferrierite
 
(Na,K)2MgAl3Si15O36(OH)·9H2O.
 
  
Vào cuối thập niên 40 của thế kỷ 20, R.M. Barrer và R.M. Milton những người
+
Đến nay, trên 40 loại zeolit tự nhiên với các dạng cấu trúc khác nhau đã được phát hiện, trong đó phổ biến hơn cả :
đầu tiên tổng hợp Z bằng phương pháp thủy nhiệt. Nguyên liệu ban đầu để tổng
+
*clinoptilolite (Na<sub>2</sub>,K<sub>2</sub>,Ca)<sub>3</sub>Al<sub>6</sub>Si<sub>30</sub>O<sub>72</sub>·24H<sub>2</sub>O,
hợp Z là dung dịch chứa NaAlO2 và thủy tinh lỏng (hoặc sol H4SiO4); cũng có thể
+
*erionite (K<sub>2</sub>, Са, Na2)<sub>2</sub>Al<sub>4</sub>Si<sub>14</sub>O<sub>36</sub>.15Н<sub>2</sub>О
sử dụng dung dịch NaOH và kaolin nung. Quá trình kết tinh được tiến hành trong
+
*phillipsite (K,Na,Ca)<sub>1-2</sub>(Si,Al)<sub>8</sub>O<sub>16</sub>·6H<sub>2O</sub>
điều kiện nhiệt độ đến 200-220 oC, áp suất cao, thời gian kết tinh có thể kéo dài
+
*chabazite (Ca,Na<sub>2</sub>)Al<sub>2</sub>Si<sub>4</sub>O<sub>12</sub>·6H<sub>2</sub>O
nhiều ngày, có trường hợp phải sử dụng chất định hướng cấu trúc. Các Z tổng hợp
+
*faujazite (Na<sub>2</sub>,Ca,Mg)<sub>3,5</sub>Al<sub>7</sub>Si<sub>17</sub>O<sub>48</sub>·32H<sub>2</sub>O
được sử dụng rộng rãi nhất là Linde A (cấu trúc LTA), X và Y (FAU) và ZSM-5
+
*mordenite (Na<sub>2</sub>,K<sub>2</sub>,Ca)Al<sub>2</sub>Si<sub>10</sub>O<sub>24</sub>·7H<sub>2</sub>O
(MFI). Gần đây, nhiều thành tựu mới đã đạt được, đặc biệt là tổng hợp các vật liệu
+
*ferrierite (Na,K)<sub>2</sub>MgAl<sub>3</sub>Si<sub>15</sub>O<sub>36</sub>(OH)·9H<sub>2</sub>O
có cấu trúc tương tự Z, vd. AlPO4, MeAPO, vật liệu mao quản trung bình có cấu
 
trúc gốc silica với kích thước lỗ xốp được kiểm soát, vd. MCM, HMS, MSU.
 
  
Đơn vị cơ cấu sơ cấp của Z (PBU) là các tứ diện TO4 (T = Si, Al). Các PBU liên
+
==Zeolit tổng hợp==
kết với tứ diện liền kề bằng cách chia sẻ ion oxy để tạo thành các dạng hình học
+
[[Hình:Ceolite nax.JPG|nhỏ|300px|Zeolit tổng hợp NaX]]
đơn giản gọi đơn vị cơ cấu thứ cấp (SBU). Các dạng SBU khác nhau (vòng đơn,
+
Vào cuối thập niên 40 của thế kỷ 20, R.M. Barrer và R.M. Milton là những người đầu tiên tổng hợp zeolit bằng phương pháp thủy nhiệt. Nguyên liệu ban đầu để tổng hợp zeolit dung dịch chứa NaAlO<sub>2</sub> và thủy tinh lỏng (hoặc sol H<sub>4</sub>SiO<sub>4</sub>); cũng có thể sử dụng dung dịch NaOH và kaolin nung. Quá trình kết tinh được tiến hành trong điều kiện nhiệt độ đến 200-220°C, áp suất cao, thời gian kết tinh thể kéo dài nhiều ngày, trường hợp phải sử dụng chất định hướng cấu trúc. Các zeolit tổng hợp được sử dụng rộng rãi nhất là Linde A (cấu trúc LTA), X và Y (FAU) và ZSM-5 (MFI). Gần đây, nhiều thành tựu mới đã đạt được, đặc biệt là tổng hợp các vật liệu có cấu trúc tương tự zeolit, vd. AlPO<sub>4</sub>, MeAPO, vật liệu mao quản trung bình cấu trúc gốc silica với kích thước lỗ xốp được kiểm soát, vd. MCM, HMS, MSU.
vòng kép, khối đa diện, hoặc các cơ cấu phức tạp hơn nữa), được liên kết với nhau
 
theo nhiều cách khác nhau để tạo ra một hệ thống kênh và hốc độc đáo đặc trưng
 
cho mỗi loại Z. Số lượng SBU trong một ô cơ bản của tinh thể Z luôn là một số
 
2
 
nguyên. Hiện nay đã 23 loại SBU khác nhau được biết đến. Các vòng Z thường
 
bao gồm 4, 5, 6, 8, 10 hoặc 12 khối tứ diện. Các mạng có vòng chứa 14, 18 và 20
 
khối tứ diện cũng đã được tổng hợp, còn các mạng chứa vòng 3, 7 hoặc 9 khối
 
tứ diện rất hiếm gặp.
 
  
Từ giữa thế kỷ 20, Z đã tạo ra một cuộc cách mạng trong các lĩnh vực công nghiệp
+
==Cấu trúc==
và đời sống liên quan đến các quá trình hấp phụ và xúc tác. Nhờ đặc tính “rây phân
+
[[Hình:Struttura molecolare di una zeolite.png|300px|trái|nhỏ|Cấu trúc phân tử của một loại zeolit, thể hiện các lỗ rỗng của [[tinh thể vi xốp]]]]
tử” với hệ thống lỗ xốp kích thước đồng nhất, cùng với thành phần cation đa dạng,
+
Đơn vị cơ cấu sơ cấp của zeolit (PBU) là các [[tứ diện]] TO<sub>4</sub> (T = Si, Al). Các PBU liên kết với tứ diện liền kề bằng cách chia sẻ ion oxy để tạo thành các dạng hình học đơn giản gọi là đơn vị cơ cấu thứ cấp (SBU). Các dạng SBU khác nhau (vòng đơn, vòng kép, khối đa diện, hoặc các cơ cấu phức tạp hơn nữa), được liên kết với nhau theo nhiều cách khác nhau để tạo ra một hệ thống kênh và hốc độc đáo đặc trưng cho mỗi loại zeolit. Số lượng SBU trong một ô cơ bản của tinh thể zeolit luôn một số 2 nguyên. Hiện nay đã có 23 loại SBU khác nhau được biết đến. Các vòng zeolit thường bao gồm 4, 5, 6, 8, 10 hoặc 12 khối tứ diện. Các mạng có vòng chứa 14, 18 và 20 khối tứ diện cũng đã được tổng hợp, còn các mạng chứa vòng có 3, 7 hoặc 9 khối tứ diện rất hiếm gặp.
các Z được sử dụng rộng rãi để phân tách các chất có đặc trưng cấu trúc khác nhau
 
như tách các hydrocarbon mạch thẳng khỏi các hydrocarbon mạch nhánh, tách
 
nước khỏi ethanol, tách CO2 khỏi khí thiên nhiên (CH4)…cũng như làm sạch nước,
 
làm sạch và/hoặc làm khan các sản phẩm công nghiệp, làm sạch môi trường (hấp
 
phụ các kim loại nặng, các hợp chất và ion độc hại…). Các Z còn có thể được sử
 
dụng trong nông nghiệp, trong công nghệ sinh học, trong y khoa…Trong lĩnh vực
 
xúc tác, các Z tổng hợp được coi là “những chất xúc tác thần kỳ” với hoạt độ và độ
 
chọn lọc cao hơn nhiều so với aluminosilicat vô định hình. Hoạt tính xúc tác của
 
các Z tổng hợp phụ thuộc vào kích thước lỗ xốp (hiệu ứng hình học), mức độ trao
 
đổi cation và bản chất cation thay thế Na và tỉ lệ Si/Al trong mạng tinh thể. Xúc tác
 
Z có thể được sử dụng trong các phản ứng có trao đổi proton (xúc tác acid-base)
 
cũng như trao đổi electron (xúc tác oxy hóa-khử). Các Z loại Y không chứa cation
 
(dạng “siêu bền” USHY), dạng chứa cation nguyên tố đất hiếm (REY) hoặc dạng
 
hỗn hợp (RE-USHY) đang được sử dụng rộng rãi trong phản ứng cracking và các
 
phản ứng đồng loại (hydrocracking, alkyl hóa, trùng hợp hóa, đồng phân hóa,
 
hydrat/dehydrat hóa…). Hoạt tính xúc tác được thể hiện nhờ các tâm acid Brönsted
 
(H+
 
linh động của nhóm OH) và/hoặc tâm acid Lewis (Al có số phối trí 3). Trong
 
công nghiệp lọc dầu, hầu hết các hệ phản ứng FCC đều sử dụng chất xúc tác chứa
 
khoảng 15 – 30% Z trên nền aluminosilicat hoặc nhôm oxide. Cracking các phân
 
tử nhỏ diễn ra trên bề mặt Z, còn cracking các phân tử lớn hơn diễn ra trên pha nền
 
với hoạt độ thấp hơn nhưng không bị khống chế bởi khuếch tán. Để nâng cao hiệu
 
quả kinh tế của quá trình FCC (chất lượng xăng, hàm lượng olefin nhẹ, đặc biệt
 
propylen), xúc tác chứa Z “siêu bền” USHY thường được bổ sung một tỉ lệ nhỏ
 
ZSM-5 ở dạng decation. Các Z trao đổi hoặc mang cation kim loại (Pt, Pd, Fe, Ni,
 
Co, Cu…) được sử dụng như các chất xúc tác lưỡng chức năng trong các quá trình
 
khác nhau như hydro-isome hóa, hydrocracking, hydro hóa/dehydro hóa, oxy hóa,
 
khử hóa chọn lọc (SCR), chuyển hóa methanol thành olefin và xăng (MTO và
 
MTG)…
 
  
==Tài liệu tham khảo==
+
==Ứng dụng==
 +
[[Hình:Thomsonite-Ca-55547.jpg|300px|nhỏ|Một mẫu zeolit chứa thomsonite và lintonite được khai thác ở Minnesota, [[Hoa Kỳ]], cho mục đích làm [[đá quý]], trang sức.]]
 +
Từ giữa thế kỷ 20, zeolit đã tạo ra một cuộc cách mạng trong các lĩnh vực công nghiệp và đời sống liên quan đến các quá trình [[hấp phụ]] và [[xúc tác]].
 +
 
 +
Nhờ đặc tính “rây phân tử” với hệ thống lỗ xốp kích thước đồng nhất, cùng với thành phần [[cation]] đa dạng, các zeolit được sử dụng rộng rãi để phân tách các chất có đặc trưng cấu trúc khác nhau như tách các hydrocarbon mạch thẳng khỏi các hydrocarbon mạch nhánh, tách nước khỏi ethanol, tách CO<sub>2</sub> khỏi khí thiên nhiên (CH<sub>4</sub>), cũng như làm sạch nước, làm sạch và/hoặc làm khan các sản phẩm công nghiệp, làm sạch môi trường (hấp phụ các kim loại nặng, các hợp chất và ion độc hại…). Khả năng [[hấp thụ]] của các zeolit còn có thể được sử dụng trong nông nghiệp, trong công nghệ sinh học, trong y khoa…
  
1. Donald. W. Breck, Zeolite Molecular Sieves: Structure, Chemistry, and Use, Wiley
+
Trong lĩnh vực [[xúc tác]], các zeolit tổng hợp được coi là “những chất xúc tác thần kỳ” với hoạt độ và độ chọn lọc cao hơn nhiều so với aluminosilicat [[vô định hình]]. Hoạt tính xúc tác của các zeolit tổng hợp phụ thuộc vào kích thước lỗ xốp (hiệu ứng hình học), mức độ trao đổi cation và bản chất cation thay thế Na và tỉ lệ Si/Al trong [[mạng tinh thể]]. Xúc tác zeolit có thể được sử dụng trong các phản ứng có trao đổi proton (xúc tác acid-base) cũng như trao đổi electron (xúc tác oxy hóa-khử). Các zeolit loại Y không chứa cation (dạng “siêu bền” USHY), dạng chứa cation nguyên tố [[đất hiếm]] (REY) hoặc dạng hỗn hợp (RE-USHY) đang được sử dụng rộng rãi trong phản ứng [[cracking]] và các phản ứng đồng loại (hydrocracking, alkyl hóa, trùng hợp hóa, đồng phân hóa,hydrat/dehydrat hóa…). Hoạt tính xúc tác được thể hiện nhờ các tâm acid Brönsted (H+ linh động của nhóm OH) và/hoặc tâm acid Lewis (Al có số phối trí 3). Trong công nghiệp [[lọc dầu]], hầu hết các hệ phản ứng FCC đều sử dụng chất xúc tác chứa khoảng 15 – 30% zeolit trên nền aluminosilicat hoặc nhôm oxide. Cracking các phân tử nhỏ diễn ra trên bề mặt zeolit, còn cracking các phân tử lớn hơn diễn ra trên pha nền với hoạt độ thấp hơn nhưng không bị khống chế bởi khuếch tán. Để nâng cao hiệu quả kinh tế của quá trình FCC (chất lượng xăng, hàm lượng olefin nhẹ, đặc biệt là propylen), xúc tác chứa zeolit “siêu bền” USHY thường được bổ sung một tỉ lệ nhỏ ZSM-5 ở dạng decation. Các zeolit trao đổi hoặc mang cation kim loại (Pt, Pd, Fe, Ni, Co, Cu…) được sử dụng như các chất xúc tác lưỡng chức năng trong các quá trình khác nhau như hydro-isome hóa, hydrocracking, hydro hóa/dehydro hóa, oxy hóa, khử hóa chọn lọc (SCR), chuyển hóa [[methanol]] thành [[olefin]] và [[xăng]] (MTO và MTG)…
1974.
 
  
2. Mohau Moshoeshoe, Misael Silas Nadiye-Tabbiruka, Veronica Obuseng, A Review of the
+
==Tài liệu tham khảo==
Chemistry, Structure, Properties and Applications of Zeolites, American Journal of
+
*Donald. W. Breck, Zeolite Molecular Sieves: Structure, Chemistry, and Use, Wiley 1974.
Materials Science 7(5), 196-221, 2017. doi:10.5923/j.materials.20170705.12.
+
*Mohau Moshoeshoe, Misael Silas Nadiye-Tabbiruka, Veronica Obuseng, A Review of the Chemistry, Structure, Properties and Applications of Zeolites, American Journal of Materials Science 7(5), 196-221, 2017. doi:10.5923/j.materials.20170705.12.

Bản hiện tại lúc 17:38, ngày 10 tháng 5 năm 2021

Một khoáng chất zeolit tự nhiên, trong bộ sưu tập của Bảo tàng Senckenberg ở Frankfurt am Main, Đức

Zeolit (còn gọi là rây phân tử) là khoáng chất silicat nhôm (aluminosilicat) hydrat hóa của một số kim loại kiềm và/hoặc kiềm thổ, có cấu trúc tinh thể vi xốp với công thức tổng quát:

Me2/mO.Al2O3.nSiO2.xH2O

trong đó, Me là cation kim loại hóa trị m (Na, K, Ca, Mg…) đóng vai trò trung hòa điện tích âm của tứ diện AlO4 trong mạng tinh thể. Zeolit thường được ứng dụng để làm vật liệu hấp phụ và hoặc xúc tác cho các quá trình hóa học. Zeolit được mô tả lần đầu tiên bởi nhà khoáng vật học Thụy Điển Axel Fredrik Cronstedt năm 1756. Tên gọi “zeolite” bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp ζέω (zéō), có nghĩa là “sôi” và λίθος (líthos) có nghĩa là “đá”, do khi nung nhanh zeolit, hơi nước bốc hơi giống như sôi.

Zeolit tự nhiên[sửa]

Zeolit heulandite-Ca (màu hồng) lẫn với zeolit mordenite (màu trắng), khai thác từ Maharashtra, Ấn Độ

Phần lớn các zeolit tự nhiên được hình thành là kết quả của phản ứng hóa học giữa dung nham núi lửa và nước ngầm chứa các ion kiềm và kiềm thổ. Zeolit tự nhiên thường bị pha lẫn bởi các khoáng chất, kim loại, thạch anh hoặc hỗn hợp một số loại zeolit khác nhau. Các khoáng vật chứa zeolit thường không màu hoặc có màu nhạt; độ cứng 3,5 – 5,5 (thang độ cứng Mohs); khối lượng riêng 1,2 – 2,8 g.cm-3. Vì các zeolit chỉ hấp phụ chọn lọc một số phân tử có kích thước phù hợp nên chúng được gọi là “rây phân tử”.

Đến nay, trên 40 loại zeolit tự nhiên với các dạng cấu trúc khác nhau đã được phát hiện, trong đó phổ biến hơn cả là:

  • clinoptilolite (Na2,K2,Ca)3Al6Si30O72·24H2O,
  • erionite (K2, Са, Na2)2Al4Si14O36.15Н2О
  • phillipsite (K,Na,Ca)1-2(Si,Al)8O16·6H2O
  • chabazite (Ca,Na2)Al2Si4O12·6H2O
  • faujazite (Na2,Ca,Mg)3,5Al7Si17O48·32H2O
  • mordenite (Na2,K2,Ca)Al2Si10O24·7H2O
  • ferrierite (Na,K)2MgAl3Si15O36(OH)·9H2O

Zeolit tổng hợp[sửa]

Zeolit tổng hợp NaX

Vào cuối thập niên 40 của thế kỷ 20, R.M. Barrer và R.M. Milton là những người đầu tiên tổng hợp zeolit bằng phương pháp thủy nhiệt. Nguyên liệu ban đầu để tổng hợp zeolit là dung dịch chứa NaAlO2 và thủy tinh lỏng (hoặc sol H4SiO4); cũng có thể sử dụng dung dịch NaOH và kaolin nung. Quá trình kết tinh được tiến hành trong điều kiện nhiệt độ đến 200-220°C, áp suất cao, thời gian kết tinh có thể kéo dài nhiều ngày, có trường hợp phải sử dụng chất định hướng cấu trúc. Các zeolit tổng hợp được sử dụng rộng rãi nhất là Linde A (cấu trúc LTA), X và Y (FAU) và ZSM-5 (MFI). Gần đây, nhiều thành tựu mới đã đạt được, đặc biệt là tổng hợp các vật liệu có cấu trúc tương tự zeolit, vd. AlPO4, MeAPO, vật liệu mao quản trung bình có cấu trúc gốc silica với kích thước lỗ xốp được kiểm soát, vd. MCM, HMS, MSU.

Cấu trúc[sửa]

Cấu trúc phân tử của một loại zeolit, thể hiện các lỗ rỗng của tinh thể vi xốp

Đơn vị cơ cấu sơ cấp của zeolit (PBU) là các tứ diện TO4 (T = Si, Al). Các PBU liên kết với tứ diện liền kề bằng cách chia sẻ ion oxy để tạo thành các dạng hình học đơn giản gọi là đơn vị cơ cấu thứ cấp (SBU). Các dạng SBU khác nhau (vòng đơn, vòng kép, khối đa diện, hoặc các cơ cấu phức tạp hơn nữa), được liên kết với nhau theo nhiều cách khác nhau để tạo ra một hệ thống kênh và hốc độc đáo đặc trưng cho mỗi loại zeolit. Số lượng SBU trong một ô cơ bản của tinh thể zeolit luôn là một số 2 nguyên. Hiện nay đã có 23 loại SBU khác nhau được biết đến. Các vòng zeolit thường bao gồm 4, 5, 6, 8, 10 hoặc 12 khối tứ diện. Các mạng có vòng chứa 14, 18 và 20 khối tứ diện cũng đã được tổng hợp, còn các mạng chứa vòng có 3, 7 hoặc 9 khối tứ diện rất hiếm gặp.

Ứng dụng[sửa]

Một mẫu zeolit chứa thomsonite và lintonite được khai thác ở Minnesota, Hoa Kỳ, cho mục đích làm đá quý, trang sức.

Từ giữa thế kỷ 20, zeolit đã tạo ra một cuộc cách mạng trong các lĩnh vực công nghiệp và đời sống liên quan đến các quá trình hấp phụxúc tác.

Nhờ đặc tính “rây phân tử” với hệ thống lỗ xốp kích thước đồng nhất, cùng với thành phần cation đa dạng, các zeolit được sử dụng rộng rãi để phân tách các chất có đặc trưng cấu trúc khác nhau như tách các hydrocarbon mạch thẳng khỏi các hydrocarbon mạch nhánh, tách nước khỏi ethanol, tách CO2 khỏi khí thiên nhiên (CH4), cũng như làm sạch nước, làm sạch và/hoặc làm khan các sản phẩm công nghiệp, làm sạch môi trường (hấp phụ các kim loại nặng, các hợp chất và ion độc hại…). Khả năng hấp thụ của các zeolit còn có thể được sử dụng trong nông nghiệp, trong công nghệ sinh học, trong y khoa…

Trong lĩnh vực xúc tác, các zeolit tổng hợp được coi là “những chất xúc tác thần kỳ” với hoạt độ và độ chọn lọc cao hơn nhiều so với aluminosilicat vô định hình. Hoạt tính xúc tác của các zeolit tổng hợp phụ thuộc vào kích thước lỗ xốp (hiệu ứng hình học), mức độ trao đổi cation và bản chất cation thay thế Na và tỉ lệ Si/Al trong mạng tinh thể. Xúc tác zeolit có thể được sử dụng trong các phản ứng có trao đổi proton (xúc tác acid-base) cũng như trao đổi electron (xúc tác oxy hóa-khử). Các zeolit loại Y không chứa cation (dạng “siêu bền” USHY), dạng chứa cation nguyên tố đất hiếm (REY) hoặc dạng hỗn hợp (RE-USHY) đang được sử dụng rộng rãi trong phản ứng cracking và các phản ứng đồng loại (hydrocracking, alkyl hóa, trùng hợp hóa, đồng phân hóa,hydrat/dehydrat hóa…). Hoạt tính xúc tác được thể hiện nhờ các tâm acid Brönsted (H+ linh động của nhóm OH) và/hoặc tâm acid Lewis (Al có số phối trí 3). Trong công nghiệp lọc dầu, hầu hết các hệ phản ứng FCC đều sử dụng chất xúc tác chứa khoảng 15 – 30% zeolit trên nền aluminosilicat hoặc nhôm oxide. Cracking các phân tử nhỏ diễn ra trên bề mặt zeolit, còn cracking các phân tử lớn hơn diễn ra trên pha nền với hoạt độ thấp hơn nhưng không bị khống chế bởi khuếch tán. Để nâng cao hiệu quả kinh tế của quá trình FCC (chất lượng xăng, hàm lượng olefin nhẹ, đặc biệt là propylen), xúc tác chứa zeolit “siêu bền” USHY thường được bổ sung một tỉ lệ nhỏ ZSM-5 ở dạng decation. Các zeolit trao đổi hoặc mang cation kim loại (Pt, Pd, Fe, Ni, Co, Cu…) được sử dụng như các chất xúc tác lưỡng chức năng trong các quá trình khác nhau như hydro-isome hóa, hydrocracking, hydro hóa/dehydro hóa, oxy hóa, khử hóa chọn lọc (SCR), chuyển hóa methanol thành olefinxăng (MTO và MTG)…

Tài liệu tham khảo[sửa]

  • Donald. W. Breck, Zeolite Molecular Sieves: Structure, Chemistry, and Use, Wiley 1974.
  • Mohau Moshoeshoe, Misael Silas Nadiye-Tabbiruka, Veronica Obuseng, A Review of the Chemistry, Structure, Properties and Applications of Zeolites, American Journal of Materials Science 7(5), 196-221, 2017. doi:10.5923/j.materials.20170705.12.