Thảo luận:Sarcoma Kaposi
Phiên bản vào lúc 09:23, ngày 27 tháng 6 năm 2023 của Marrella (Thảo luận | đóng góp)

Morbidity and Mortality Weekly Report, Vol. 30, no. 25, July 3, 1981

Mmwr-aids-July1981-report-101.png

HIV/AIDS được chú ý đến lần đầu ở Hoa Kỳ vào năm 1981. Trước tiên là sự gia tăng bất thường những căn bệnh hiếm gặp xảy ra với cộng đồng người đồng tính nam mà trước đó chỉ thấy ở những người có hệ miễn dịch rất yếu, tiêu biểu nhất là viêm phổi Pneumocystis và sarcoma Kaposi. Không khó để suy đoán rằng có "thứ gì đó mới" đã tàn phá hệ miễn dịch của họ. Trong khi AIDS vẫn còn đang ẩn mình trong bóng tối, sự xuất hiện của sarcoma Kaposi và những bệnh cơ hội khác được xem như điềm báo đầu tiên hé lộ một nỗi kinh hoàng cho nhân loại trong tương lai. Sau hơn 40 năm, con người đã dần đi đến chiến thắng trước căn bệnh thế kỷ, nhưng tác động của nó luôn hằn sâu, để lại những suy ngẫm và bài học sâu sắc. Quay trở lại năm 1981, tôi lược dịch một bản báo cáo của CDC đăng trên MMWR về tai ương bí ẩn đang gieo rắc lên cộng đồng người đồng tính nam ở Hoa Kỳ.

Sarcoma Kaposi và viêm phổi Pneumocystis ở những người đồng tính nam – New York City và California

Trong 30 tháng qua, sarcoma Kaposi (KS), một loại ung thư không phổ biến ở Hoa Kỳ, đã được chẩn đoán ở 26 người đồng tính nam (20 ở New York City [NYC], 6 ở California). 26 bệnh nhân trong độ tuổi 26-51 (trung bình 39). 8 trong số này đã qua đời (7 ở NYC, 1 ở California)—tất cả trong vòng 24 tháng từ khi KS được chẩn đoán. Kết quả chẩn đoán ở cả 26 ca đều dựa trên khám nghiệm mô bệnh thương tổn da, hạch bạch huyết, dạ dày hay cơ quan khác. 25 bệnh nhân là người da trắng, 1 là người da đen. Biểu hiện của 20 bệnh nhân trong số này được trình bày ở bảng 1.

Thương tổn da hay niêm mạc, thường là mảng hay u cục màu xanh đậm đến tím, có ở đa số các bệnh nhân lúc họ thăm khám lần đầu. Tuy nhiên, những thương tổn này không phải luôn có và thường được bệnh nhân và bác sĩ của họ xem là lành tính.

Một bản phân tích của Cơ quan Đăng ký Ung thư Điều phối Đại học New York về KS ở nam tuổi dưới 50 tiết lộ không ghi nhận ca nào tại Bệnh viện Bellevue từ năm 1970 đến 1979 và 3 ca tại Bệnh viện Đại học New York từ 1961 đến 1979.

7 bệnh nhân KS bị nhiễm trùng nghiêm trọng chẩn đoán sau lần thăm khám đầu. 6 người bị viêm phổi (4 xác nhận sinh thiết do Pneumocystis carinii [PC]), và một bị toxoplasmosis hoại tử hệ thần kinh trung ương. Một người đồng thời mắc viêm phổi do Pneumocystis, herpes simplex, candidiasis diện rộng, và viêm màng não do Cryptococcus. 12 bệnh nhân có kết quả xét nghiệm nhiễm Cytomegalovirus (CMV). Tất cả 12 người có bằng chứng huyết thanh đã từng hay đang nhiễm CMV. Ở 3 bệnh nhân đã có kết quả nuôi cấy, CMV được cô lập từ máu, nước tiểu, và/hoặc phổi của cả 3. Quá khứ nhiễm amip và viêm gan được báo cáo phổ biến.

Kể từ báo cáo trước về 5 ca viêm phổi Pneumocystis ở người đồng tính nam từ Los Angeles, nay đã có thêm 10 ca viêm phổi PC được xác nhận sinh thiết ở cùng đối tượng cùng bang (4 ở Los Angeles và 6 ở vùng Vịnh San Francisco). Hai trong số 10 người này cũng bị KS. Vậy tổng số ca viêm phổi PC trong nhóm đồng tính nam ở California đã tăng lên 15 tính từ tháng 9 năm 1979. Các bệnh nhân tuổi từ 25 đến 46.

Ghi chú của ban biên tập: KS là ung thư biểu hiện chủ yếu qua nhiều u mạch trên da và cơ quan khác. Căn bệnh là đa tiêu điểm với diễn biến từ ì ạch với chỉ những dấu hiệu trên da, cho đến bạo phát với nội tạng liên can diện rộng.

Số ca mắc và tử vong chính xác vì KS ở Hoa Kỳ không được biết, nhưng ước tính tỷ lệ mắc thường niên trong khoảng 0,02-0,06 trên 100.000; bệnh chủ yếu tác động người già. Trong loạt 92 bệnh nhân được điều trị tại Viện Ung thư Memorial Sloan-Kettering ở NYC giai đoạn 1949-1975, 76% là nam và độ tuổi trung bình lúc chẩn đoán là 63 (phạm vi 23 đến 90).

Căn bệnh ở người già thường biểu hiện là những thương tổn da và một diễn biến lâm sàng mạn tính (thời gian sống trung bình 8-13 năm). Hai ngoại lệ về hình mẫu dịch tễ này đã từng được lưu ý. Kiểu đầu tiên xảy ra ở một vành đai đặc hữu trải qua châu Phi xích đạo, nơi KS thường tác động trẻ em, thanh niên và chiếm 9% tổng số ung thư. Thứ hai, căn bệnh có vẻ hay gặp hơn ở người nhận ghép thận và người nhận liệu pháp ức chế miễn dịch.