Khác biệt giữa các bản “Louis Pasteur”
Dòng 43: Dòng 43:
 
==== Tả gà ====
 
==== Tả gà ====
 
[[Tả gà]] là một trong những căn bệnh thu hút sự quan tâm của Pasteur. Ông nhận mẻ cấy từ [[Jean Joseph Henri Toussaint]] và nuôi chúng trong nước xuýt gà.<ref name="Plotkin pp. 35-36">{{cite book|editor1-last=Plotkin|editor1-first=Stanley A.|title=History of Vaccine Development|date=2011|publisher=Springer|isbn=978-1-4419-1339-5|pages=35–36|url=https://books.google.com/books?id=Wf2jS_4lCOAC&pg=PA39}}</ref> Trong quá trình nghiên cứu, một mẻ vi khuẩn đã bị hỏng và không thể gây bệnh ở một số con gà bị ông cố tình làm cho nhiễm bệnh. Khi sử dụng lại những con gà khỏe mạnh này, Pasteur phát hiện ra chúng không thể bị nhiễm vi khuẩn, kể cả vi khuẩn mới. Vi khuẩn suy yếu chỉ gây ra những triệu chứng nhẹ và đã giúp những con gà miễn nhiễm căn bệnh.<ref name="catholic intro"/><ref name="ullmann"/>
 
[[Tả gà]] là một trong những căn bệnh thu hút sự quan tâm của Pasteur. Ông nhận mẻ cấy từ [[Jean Joseph Henri Toussaint]] và nuôi chúng trong nước xuýt gà.<ref name="Plotkin pp. 35-36">{{cite book|editor1-last=Plotkin|editor1-first=Stanley A.|title=History of Vaccine Development|date=2011|publisher=Springer|isbn=978-1-4419-1339-5|pages=35–36|url=https://books.google.com/books?id=Wf2jS_4lCOAC&pg=PA39}}</ref> Trong quá trình nghiên cứu, một mẻ vi khuẩn đã bị hỏng và không thể gây bệnh ở một số con gà bị ông cố tình làm cho nhiễm bệnh. Khi sử dụng lại những con gà khỏe mạnh này, Pasteur phát hiện ra chúng không thể bị nhiễm vi khuẩn, kể cả vi khuẩn mới. Vi khuẩn suy yếu chỉ gây ra những triệu chứng nhẹ và đã giúp những con gà miễn nhiễm căn bệnh.<ref name="catholic intro"/><ref name="ullmann"/>
 +
 +
Vào năm 1879 phụ tá của Pasteur là [[Charles Chamberland]] được hướng dẫn tiêm vi khuẩn cho gà sau khi Pasteur đi du lịch. Chamberland có lẽ do vội vã với kỳ nghỉ của mình nên đã không thực hiện. Khi quay về, những mẻ cấy đã để được một tháng khiến những con gà không khỏe, nhưng rồi chúng lại hồi phục hoàn toàn thay vì chết như thường lệ. Chamberland nghĩ chắc có vấn đề gì đó và muốn vứt mẻ cấy mà dường như bị hỏng đi nhưng Pasteur đã ngăn lại.<ref>{{cite magazine|last=Dixon|first=Bernard|title=The hundred years of Louis Pasteur|magazine=New Scientist|issue=1221|pages=30–32|date=1980|publisher=Reed Business Information|url=https://books.google.com/books?id=eOHNHA9ga84C&pg=PA31}}</ref> Ông tiêm vi khuẩn độc tính vào những con gà và chúng sống sót, từ đó ông kết luận những con gà này đã miễn nhiễm căn bệnh.<ref name="Artenstein p. 75">{{cite book|editor1-last=Artenstein|editor1-first=Andrew W.|title=Vaccines: A Biography|date=2009|publisher=Springer|isbn=978-1-4419-1108-7|page=75|url=https://books.google.com/books?id=ewdL8ilILZAC&pg=PA75}}</ref>
  
 
== Tham khảo ==
 
== Tham khảo ==
 
{{Reflist}}
 
{{Reflist}}

Phiên bản lúc 22:53, ngày 21 tháng 1 năm 2021

Louis Pasteur
Louis Pasteur, foto av Paul Nadar, Crisco edit.jpg
Ảnh Nadar chụp
Sinh27 tháng 12 năm 1822
Dole, Jura, Pháp
Mất28 tháng 9 năm 1895 (72 tuổi)
Quốc tịchPháp
Trường học
Được biết đến vìTạo ra vắc-xin bệnh dại đầu tiên
Vắc-xin bệnh tả[1]
Vắc-xin bệnh than
Diệt khuẩn Pasteur
Giải thưởng
Sự nghiệp khoa học
Lĩnh vực
Tổ chức
Học trò nổi bậtCharles Friedel[4]
Chữ ký
Louis Pasteur Signature.svg

Louis Pasteur (27 tháng 12 năm 1822 – 28 tháng 9 năm 1895) là nhà sinh học, vi sinh học, hóa học người Pháp lừng danh vì những phát hiện về nguyên lý vắc-xin, lên men, và diệt khuẩn Pasteur. Các phát hiện của ông đã tạo nên bước đột phát trong việc tìm hiểu căn nguyên và ngăn ngừa bệnh tật, đồng thời cứu sống rất nhiều sinh mạng. Ông làm giảm tỷ lệ tử vong do sốt hậu sản, tạo ra vắc-xin phòng dạithan đầu tiên. Thuyết mầm bệnh và những ứng dụng của nó trong y học lâm sàng nhận được sự ủng hộ cũng nhờ những khám phá của ông. Pasteur nổi tiếng nhất vì đã phát minh ra kỹ thuật xử lý sữa và rượu vang để ngăn nhiễm khuẩn mà nay gọi là diệt khuẩn Pasteur. Cùng với Ferdinand CohnRobert Koch, Pasteur được xem là một trong những nhà sáng lập của vi trùng học và "cha đẻ của vi sinh vật học".

Pasteur phản bác thuyết tự sinh; ông làm thí nghiệm chỉ ra rằng không có sự xâm nhiễm, vi sinh vật không thể sinh sôi. Dưới sự bảo trợ của Viện Hàn lâm Khoa học Pháp, ông đã chứng minh trong bình kín và tiệt trùng không xảy ra hiện tượng, còn trong bình tiệt trùng nhưng hở thì vi sinh vật có thể sinh trưởng.[5] Tuy không phải là người đầu tiên đề xuất thuyết mầm bệnh song các thí nghiệm của Pasteur đã chỉ ra tính đúng đắn của nó và thuyết phục được hầu hết châu Âu. Hiện ông được xem là một trong những cha đẻ của lý thuyết này.[6] Pasteur còn có những khám phá quan trọng trong hóa học, nổi bật nhất là tính bất đối xứng của những tinh thể nhất định và raxem hóa. Vào đầu sự nghiệp, nghiên cứu về tartaric acid đã mang đến những lời giải đầu tiên về đồng phân quang học. Công trình của ông dẫn hướng đến hiểu biết hiện tại về nguyên lý cơ bản trong cấu trúc của hợp chất hữu cơ.

Pasteur là giám đốc của Viện Pasteur thành lập năm 1887 đến khi qua đời. Thi thể ông được chôn trong căn hầm bên dưới viện. Tuy có nhiều đóng góp to lớn song danh tiếng của Pasteur lại đi kèm với những tranh cãi. Việc phân tích lại cuốn sổ tay cá nhân tiết lộ ông đã gian dối nhằm đánh bại địch thủ.[7][8]

Nghiên cứu

Miễn dịch học và chủng ngừa

Tả gà

Tả gà là một trong những căn bệnh thu hút sự quan tâm của Pasteur. Ông nhận mẻ cấy từ Jean Joseph Henri Toussaint và nuôi chúng trong nước xuýt gà.[9] Trong quá trình nghiên cứu, một mẻ vi khuẩn đã bị hỏng và không thể gây bệnh ở một số con gà bị ông cố tình làm cho nhiễm bệnh. Khi sử dụng lại những con gà khỏe mạnh này, Pasteur phát hiện ra chúng không thể bị nhiễm vi khuẩn, kể cả vi khuẩn mới. Vi khuẩn suy yếu chỉ gây ra những triệu chứng nhẹ và đã giúp những con gà miễn nhiễm căn bệnh.[10][6]

Vào năm 1879 phụ tá của Pasteur là Charles Chamberland được hướng dẫn tiêm vi khuẩn cho gà sau khi Pasteur đi du lịch. Chamberland có lẽ do vội vã với kỳ nghỉ của mình nên đã không thực hiện. Khi quay về, những mẻ cấy đã để được một tháng khiến những con gà không khỏe, nhưng rồi chúng lại hồi phục hoàn toàn thay vì chết như thường lệ. Chamberland nghĩ chắc có vấn đề gì đó và muốn vứt mẻ cấy mà dường như bị hỏng đi nhưng Pasteur đã ngăn lại.[11] Ông tiêm vi khuẩn độc tính vào những con gà và chúng sống sót, từ đó ông kết luận những con gà này đã miễn nhiễm căn bệnh.[12]

Tham khảo

  1. "History of the Cholera Vaccine | Passport Health", www.passporthealthusa.com, truy cập ngày 25 tháng 12 năm 2020
  2. Fellows of the Royal Society, London: Royal Society, lưu trữ từ nguyên tác ngày 16 tháng 3 năm 2015
  3. II. Abdülhamid'in Fransız kimyagere yaptığı yardım ortaya çıktı, CNN Türk, truy cập ngày 29 tháng 12 năm 2016
  4. Asimov, Asimov's Biographical Encyclopedia of Science and Technology 2nd Revised edition
  5. Seckbach, Joseph (editor) (2004), Origins: Genesis, Evolution and Diversity of Life, Dordrecht, The Netherlands: Kluwer Academic Publishers, tr. 20, ISBN 978-1-4020-1813-8CS1 maint: extra text: authors list (link)
  6. a b Ullmann, Agnes (tháng 8 năm 2007), "Pasteur-Koch: Distinctive Ways of Thinking about Infectious Diseases", Microbe, 2 (8): 383–387, lưu trữ từ nguyên tác ngày 10 tháng 5 năm 2016, truy cập ngày 12 tháng 12 năm 2007
  7. Geison, Gerald L (1995), The Private Science of Louis Pasteur, Princeton, NJ: Princeton university press, ISBN 978-0-691-01552-1
  8. Anderson, C. (1993), "Pasteur Notebooks Reveal Deception", Science, 259 (5098): 1117, Bibcode:1993Sci...259.1117A, doi:10.1126/science.259.5098.1117-a, PMID 8438162
  9. Plotkin, Stanley A., bt. (2011), History of Vaccine Development, Springer, tr. 35–36, ISBN 978-1-4419-1339-5
  10. Lỗi chú thích: Thẻ <ref> sai; không có nội dung trong thẻ ref có tên catholic intro
  11. Dixon, Bernard (1980), "The hundred years of Louis Pasteur", New Scientist, Reed Business Information, no. 1221, tr. 30–32
  12. Artenstein, Andrew W., bt. (2009), Vaccines: A Biography, Springer, tr. 75, ISBN 978-1-4419-1108-7