Mục từ này cần được bình duyệt
Khác biệt giữa các bản “Lê Văn Thiêm”
Dòng 48: Dòng 48:
 
Đóng góp quan trọng của Lê Văn Thiêm không chỉ là việc chứng minh sự tồn tại của nghiệm bài toán ngược trong những tình huống tổng quát hơn so với công trình của Nevanlinna, mà điều quan trọng là lần đầu tiên, ông đưa ra cộng cụ ánh xạ á baor giác và không gian Teichmuler vào việc giải bài toán ngược. Tư tưởng đó của ông đã được những nhà toán học nổi tiếng khác sử dụng để thu được những kết quả mới cho bài toán ngược: Goldberg, Weitsman, Drasin, Cuối cùng, năm 1977, Drasin cho lời giải trọn vẹn của bài toán ngược của lý thuyết Nevanlinna, 45 năm sau khi bài toán được đặt ra. Điều đáng nói là, trong công trình của mình, Drasin cũng sử dụng những phương pháp mà Lê Văn Thiêm lần đầu tiên áp dụng.
 
Đóng góp quan trọng của Lê Văn Thiêm không chỉ là việc chứng minh sự tồn tại của nghiệm bài toán ngược trong những tình huống tổng quát hơn so với công trình của Nevanlinna, mà điều quan trọng là lần đầu tiên, ông đưa ra cộng cụ ánh xạ á baor giác và không gian Teichmuler vào việc giải bài toán ngược. Tư tưởng đó của ông đã được những nhà toán học nổi tiếng khác sử dụng để thu được những kết quả mới cho bài toán ngược: Goldberg, Weitsman, Drasin, Cuối cùng, năm 1977, Drasin cho lời giải trọn vẹn của bài toán ngược của lý thuyết Nevanlinna, 45 năm sau khi bài toán được đặt ra. Điều đáng nói là, trong công trình của mình, Drasin cũng sử dụng những phương pháp mà Lê Văn Thiêm lần đầu tiên áp dụng.
  
Công trình về bài toán ngược của lý thuyết Nevanlinna đã đặt Lê Văn Thiêm vào hàng ngũ những tác gia kinh điển của lý thuyết này. Ngay khi công trình ra đời, người giới thiệu nó trên tờ [[American Mathematical Reviews]] chính là [[Ahlfors]], người nhận Giải thưởng Fields đầu tiên năm 1936. Ahlfors cũng giới thiệu một số công trình tiếp theo của Lê Văn Thiêm. Cho đến tận hôm nay, hầu như cuốn sách nào về lý thuyết Nevanlinna đều nhắc đến công trình đầu tiên của Lê Văn Thiêm. Không phải nhà khoa học nào cũng có cái vinh dự được nhắc đến kết quả của mình 60 năm sau. Có thể tin rằng, các công trình đó của Lê Văn Thiêm sẽ còn được nhắc đến nhiều năm, như là một trong những cột mốc của lý thuyết hàm phân hình. Bài báo Beitrag zum Typenproblem der Riemannschen Flachen (Về phân loại diện Riemann) của Lê Văn Thiêm đăng trên tờ [[Commentarii mathematici Helvertici]] năm 1947<ref>Le-Van Thiem, ''[https://link.springer.com/article/10.1007/BF02568134 Beitrag zum Typenproblem der Riemannschen Flächen]'', [[Commentarii Mathematici Helvetici]], tháng 12 năm 1947, số 20, tr.270–287, [[DOI]] [https://doi.org/10.1007/BF02568134 10.1007/BF02568134]</ref> chính là công trình toán học đầu tiên của người Việt Nam công bố trên tạp chí quốc tế. Có thể xem năm 1947 là năm mở đầu cho Lịch sử toán học Việt Nam hiện đại.
+
Công trình về bài toán ngược của lý thuyết Nevanlinna đã đặt Lê Văn Thiêm vào hàng ngũ những tác gia kinh điển của lý thuyết này. Ngay khi công trình ra đời, người giới thiệu nó trên tờ [[American Mathematical Reviews]] chính là [[Ahlfors]], người nhận Giải thưởng Fields đầu tiên năm 1936. Ahlfors cũng giới thiệu một số công trình tiếp theo của Lê Văn Thiêm. Cho đến tận hôm nay, hầu như cuốn sách nào về lý thuyết Nevanlinna đều nhắc đến công trình đầu tiên của Lê Văn Thiêm. Không phải nhà khoa học nào cũng có cái vinh dự được nhắc đến kết quả của mình 60 năm sau. Có thể tin rằng, các công trình đó của Lê Văn Thiêm sẽ còn được nhắc đến nhiều năm, như là một trong những cột mốc của lý thuyết hàm phân hình. Bài báo ''Beitrag zum Typenproblem der Riemannschen Flachen'' (Về phân loại diện Riemann) của Lê Văn Thiêm đăng trên tờ [[Commentarii mathematici Helvertici]] năm 1947<ref>Le-Van Thiem, ''[https://link.springer.com/article/10.1007/BF02568134 Beitrag zum Typenproblem der Riemannschen Flächen]'', [[Commentarii Mathematici Helvetici]], tháng 12 năm 1947, số 20, tr.270–287, [[DOI]] [https://doi.org/10.1007/BF02568134 10.1007/BF02568134]</ref> chính là công trình toán học đầu tiên của người Việt Nam công bố trên tạp chí quốc tế. Có thể xem năm 1947 là năm mở đầu cho Lịch sử toán học Việt Nam hiện đại.
  
 
Trở về Việt Nam năm 1949 theo lời kêu gọi của Chủ tịch [[Hồ Chí Minh]], Giáo sư Lê Văn Thiêm tạm dừng các nghiên cứu toán học của mình để chuyên tam vào các nhiệm vụ quan trọng được Nhà nước giao phó. Tuy vậy, khi có chủ trương thúc đẩy phong trào nghiên cứu khoa học trong các trường đại học, Giáo sư lại trở về với lý thuyết diện Riemann yêu thích của mình. Theo lời kể của ông, hai công trình đang trong tạp chí Sibirskii Matematicheski Journal và Acta Scientiarum Vietnamicarum vào các năm 1964, 1965 là kết quả của việc nghiên cứu một vấn đề mà ông suy nghĩ từ khi còn ở Pháp, nhưng chưa có dịp thực hiện. Trong các công trình đó, Lê Văn Thiêm đưa ra điều kiện để một mặt phủ Riemann thuộc kiểu hyperbolic thông qua việc tồn tại một đầu mút modula. Ông cũng đưa ra những điều kiện để một diện Riemann thuộc lớp OHB, tức là trên đó không tồn tại hàm điều hoà giới nội khác hằng số. Từ sau hai công trình kể trên, Giáo sư Lê Văn Thiêm chuyển hẳn sang nghiên cứu các vấn đề toán học ứng dụng, theo chủ trương đưa khoa học ào phục vụ thực tiễn sản xuất và chiến đấu.
 
Trở về Việt Nam năm 1949 theo lời kêu gọi của Chủ tịch [[Hồ Chí Minh]], Giáo sư Lê Văn Thiêm tạm dừng các nghiên cứu toán học của mình để chuyên tam vào các nhiệm vụ quan trọng được Nhà nước giao phó. Tuy vậy, khi có chủ trương thúc đẩy phong trào nghiên cứu khoa học trong các trường đại học, Giáo sư lại trở về với lý thuyết diện Riemann yêu thích của mình. Theo lời kể của ông, hai công trình đang trong tạp chí Sibirskii Matematicheski Journal và Acta Scientiarum Vietnamicarum vào các năm 1964, 1965 là kết quả của việc nghiên cứu một vấn đề mà ông suy nghĩ từ khi còn ở Pháp, nhưng chưa có dịp thực hiện. Trong các công trình đó, Lê Văn Thiêm đưa ra điều kiện để một mặt phủ Riemann thuộc kiểu hyperbolic thông qua việc tồn tại một đầu mút modula. Ông cũng đưa ra những điều kiện để một diện Riemann thuộc lớp OHB, tức là trên đó không tồn tại hàm điều hoà giới nội khác hằng số. Từ sau hai công trình kể trên, Giáo sư Lê Văn Thiêm chuyển hẳn sang nghiên cứu các vấn đề toán học ứng dụng, theo chủ trương đưa khoa học ào phục vụ thực tiễn sản xuất và chiến đấu.

Phiên bản lúc 13:22, ngày 9 tháng 4 năm 2021

Tượng Lê Văn Thiêm trong khuôn viên Trường Đại học Sư phạm Hà Nội

Lê Văn Thiêm (sinh năm 1918, mất năm 1991) là một nhà toán học Việt Nam, một trong những người đầu tiên xây dựng toán học Việt Nam hiện đại. Ông từng đảm nhiệm các vị trí Giám đốc Trường Đại học Sư phạm Khoa học Hà Nội (1954-1956), Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội (1957-1970), Viện trưởng đầu tiên của Viện Toán học (1970-1980), Chủ tịch đầu tiên của Hội Toán học Việt Nam, Tổng biên tập đầu tiên của hai tờ báo toán học của Việt Nam là Acta Mathematica VietnamicaVietnam Journal of Mathematics.

Tiểu sử

Lê Văn Thiêm sinh ngày 29 tháng 3 năm 1918 tại làng Trung Lễ, Đức Thọ, Hà Tĩnh. Trung Lễ là một làng cổ, thành lập cách đây khoảng 600 năm trên vùng đất trũng, quanh năm bị đe doạ vì nạn hạn hán, lụt lội. Dân Trung Lễ thuần nông, nghèo và hiếu học. Từ thế kỷ 15 đã có ông Trần Tước đỗ Tiến sĩ (Khoa Bình Thìn, 1496). Họ Lê ở Trung Lễ nổi tiếng về truyên thống Nho học và yêu nước. Cụ thân sinh ra Lê Văn Thiêm là ông Lê Văn Nhiễu (1869-1929), nhiều nơi viết là Nhiệu (theo cách phát âm của người Hà Tĩnh), đậu cử nhân Khoa Canh Tý (1900). Mẫu thân của cụ Cử Lê Văn Nhiễu, tức bà nội của Lê Văn Thiêm, là bà Phan Thị Dại, chị ruột nhà yêu nước Phan Đình Phùng. Chú ruột của Lê Văn Thiêm là ông Lê Văn Huân, đậu Giải nguyên Khoa Bính Ngọ (1906), tham gia phong trào yêu nước Duy Tân Hội, rồi Tân Việt Đảng, và tự sát trong nhà lao Vinh năm 1929. Cụ Lê Văn Nhiễu tuy đỗ đạt nhưng không ra làm quan, mà ở lại quê nhà dạy học, bốc thuốc, phụng dưỡng cha mẹ, nuôi dạy con cái. Người anh cả của Lê Văn Thiêm là Lê Văn Kỷ đậu Tiến sĩ năm Kỷ Mùi (1919) trong khoa thi cuối cùng của Triều Nguyễn. Anh thứ hai của Lê Văn Thiêm, ông Lê Văn Luân, là Bí thư Huyện uỷ Đảng Cộng sản Đông Dương huyện Đức Thọ, bị Pháp xử tử hình năm 1931. Trong số 5 người chị gái của Lê Văn Thiêm có hai người tham gia phong trào cách mạng 1930-1931 và được công nhận là lão thành cách mạng.

Sinh ra trong một gia đình giàu truyền thống yêu nước, Lê Văn Thiêm sớm nuôi trong mình hoài bão học tập để phụng sự Tổ quốc. Năm 1941, Lê Văn Thiêm thi đỗ vào trường École Normale Supérieure ở Phố d’Ulm của Paris. Tốt nghiệm École Normale, Lê Văn Thiêm làm nghiên cứu sinh tại Gottingen (Đức) dưới sự hướng dẫn của H. Wittich và bảo vệ luận án Tiến sĩ Toán học về giải tích phức ngày 4 tháng 4 năm 1945. Ông đã từng học với những người thầy giỏi nhất thời đó, như Nevanlinna, Valiron, và nghiên cứu một lĩnh vực thời sự nhất thời bấy giờ là lý thuyết phân phối giá trị các hàm phân hình (còn gọi là lý thuyết Nevanlinna). Ông bảo vệ luận án Tiến sĩ quốc gia năm 1949 với những kết quả mà ngày nay đã trở thành kinh điển.

Nghe theo lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh, cuối năm 1949, ông đã rời con đường công danh ở Châu Âu để bí mật trở về nước tham gia kháng chiến. Từ Châu Âu, ông về Băng Cốc, rồi từ đó đi qua Campuchia để về Nam Bộ. Ở Nam Bộ, Giáo sư Lê Văn Thiêm gia nhập Đảng Cộng sản Đông Dương và công tác tại Sở Giáo dục. Ông đã góp phần đào tạo nhiều giáo viên cho kháng chiến. Ít lâu sau, ông lên đường ra Việt Bắc nhận nhiệm vụ mới: lãnh đạo trung tâm đại học đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà. Sau 6 tháng gian nan đi bộ từ Nam Bộ lên chiến khu Việt Bắc, Giáo sư Lê Văn Thiêm được giao trọng trách Hiệu trưởng Trường Sư phạm cao cấp và Trường Khoa học cơ bản. Ông đã làm hết sức mình trên cương vị đó, và trở thành người đặt nền móng cho giáo dục đại học của nước Việt Nam mới, người thầy của hầu hết những nhà khoa học Việt Nam được đào tạo trong hơn mươi, mười lăm năm đầu tiên sau Cách mạng Tháng Tám.

Từ sau khi hoà bình lập lại, Giáo sư Lê Văn Thiêm được giao nhiều trọng trách: Giám đốc Trường Đại học Sư phạm Khoa học Hà Nội (1954-1956), Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội (1957-1970), Viện trưởng đầu tiên của Viện Toán học (1970-1980). Ông là đại biểu Quốc hội các khoá II và III. Ông cũng là Đại diện toàn quyền của Việt Nam tại Viện nghiên cứu hạt nhân Đupna, Liên Xô (từ 1956 đến 1980), Chủ tịch đầu tiên của Hội Toán học Việt Nam, Tổng biên tập đầu tiên của hai tờ báo toán học của Việt Nam là Acta Mathematica VietnamicaVietnam Journal of Mathematics.

Đóng góp

Lý thuyết phân phối giá trị các hàm phân hình

Lý thuyết phân phối giá trị các hàm phân hình, còn gọi là lý thyết Nevanlinna, được xem là một trong những lý thuyết đẹp nhất của giải tích toán học thế kỷ 20. Có thể xem lý thuyết này là sự mở rộng của định lý cơ bản của đại số.

Có ba “hòn đá tảng” của lý thuyết Nevanlinna: Đính lý cơ bản thứ nhất, Định lý cơ bản thứ hai, Quan hệ số khuyết. Đóng góp của Lê Văn Thiêm vào lý thuyết Nevanlinna chính là những kết quả về Bài toán ngược.

Nhắc lại rằng, để định lượng “số khuyết”, Nevanlinna đưa ra các đại lượng sau:

δ(a) = lim inf r→∞m(f, a, r)T(f, r),
θ(a) = lim supr→∞N¯(f, a, r)T(f, r),

trong đó

N¯(f, a, r) là đại lượng được tính như N(f, a, r), nhưng mỗi nghiệm của phương trình f(z) = a chỉ được kể một lần (không tính bội)
số δ(a) được gọi là số khuyết của hàm tại giá trị a.

Nevanlinna chứng minh quan hệ số khuyết sau đây:

X a∈C∪∞{δ(a) + θ(a)} ≤ 2.

Từ quan hệ số khuyết, một cách tự nhiên xuất hiện bài toán sau, thường được gọi là bài toán ngược của lý thuyết Nevanlinna, "Cho dãy hữu hạn hoặc vô hạn các điểm {ak} trong mặt phẳng phức C (kể cả điểm vô cngf), và các số không âm tương ứng δ(ak) , θ(ak thoả mãn các điều kiện sau:

0 < δ(ak) + θ(ak) ≤ 1, k = 1, 2, · · ·Xk{δ(ak) + θ(ak)} ≤ 2."

Vấn đề đặt ra là tìm hàm phân hình có số khuyết (tương ứng, chỉ số bội) tại các điểm ak là δ(ak) tương ứng, θ(ak) và số khuyết (tương ứng, chỉ số bội) bằng 0 tại các điểm còn lại.

Nevanlinna (năm 1932) đã cho lời giải của bài toán trên trong trường hợp riêng với những giả thiết chặt sau đây:

  1. dãy {ak} là hữu hạn,
  2. δ(ak) là các số hữu tỷ
  3. θ(ak) = 0 với mọi k.

Trong khoảng 15 năm tiếp theo kể từ kết quả đầu tiên của Nevanlinna, bài toán trên không tiến triển thêm được bước nào đáng kể. Cho đến năm 1949, Lê Văn Thiêm đã tiến một bước dài trong việc giải bài toán. Kết quả chính mà ông thu được là xây dựng nghiệm của bài toán ngược với những giả thiết sau đây:

  1. dãy {ak} là hữu hạn,
  2. δ((ak) là các số hữu tỷ,
  3. nếu θ(ak) > 0 thì δ(ak) + θ(ak) < 1,
  4. Pk{δ(ak) + θ(ak)} = 2.

Đóng góp quan trọng của Lê Văn Thiêm không chỉ là việc chứng minh sự tồn tại của nghiệm bài toán ngược trong những tình huống tổng quát hơn so với công trình của Nevanlinna, mà điều quan trọng là lần đầu tiên, ông đưa ra cộng cụ ánh xạ á baor giác và không gian Teichmuler vào việc giải bài toán ngược. Tư tưởng đó của ông đã được những nhà toán học nổi tiếng khác sử dụng để thu được những kết quả mới cho bài toán ngược: Goldberg, Weitsman, Drasin, Cuối cùng, năm 1977, Drasin cho lời giải trọn vẹn của bài toán ngược của lý thuyết Nevanlinna, 45 năm sau khi bài toán được đặt ra. Điều đáng nói là, trong công trình của mình, Drasin cũng sử dụng những phương pháp mà Lê Văn Thiêm lần đầu tiên áp dụng.

Công trình về bài toán ngược của lý thuyết Nevanlinna đã đặt Lê Văn Thiêm vào hàng ngũ những tác gia kinh điển của lý thuyết này. Ngay khi công trình ra đời, người giới thiệu nó trên tờ American Mathematical Reviews chính là Ahlfors, người nhận Giải thưởng Fields đầu tiên năm 1936. Ahlfors cũng giới thiệu một số công trình tiếp theo của Lê Văn Thiêm. Cho đến tận hôm nay, hầu như cuốn sách nào về lý thuyết Nevanlinna đều nhắc đến công trình đầu tiên của Lê Văn Thiêm. Không phải nhà khoa học nào cũng có cái vinh dự được nhắc đến kết quả của mình 60 năm sau. Có thể tin rằng, các công trình đó của Lê Văn Thiêm sẽ còn được nhắc đến nhiều năm, như là một trong những cột mốc của lý thuyết hàm phân hình. Bài báo Beitrag zum Typenproblem der Riemannschen Flachen (Về phân loại diện Riemann) của Lê Văn Thiêm đăng trên tờ Commentarii mathematici Helvertici năm 1947[1] chính là công trình toán học đầu tiên của người Việt Nam công bố trên tạp chí quốc tế. Có thể xem năm 1947 là năm mở đầu cho Lịch sử toán học Việt Nam hiện đại.

Trở về Việt Nam năm 1949 theo lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Giáo sư Lê Văn Thiêm tạm dừng các nghiên cứu toán học của mình để chuyên tam vào các nhiệm vụ quan trọng được Nhà nước giao phó. Tuy vậy, khi có chủ trương thúc đẩy phong trào nghiên cứu khoa học trong các trường đại học, Giáo sư lại trở về với lý thuyết diện Riemann yêu thích của mình. Theo lời kể của ông, hai công trình đang trong tạp chí Sibirskii Matematicheski Journal và Acta Scientiarum Vietnamicarum vào các năm 1964, 1965 là kết quả của việc nghiên cứu một vấn đề mà ông suy nghĩ từ khi còn ở Pháp, nhưng chưa có dịp thực hiện. Trong các công trình đó, Lê Văn Thiêm đưa ra điều kiện để một mặt phủ Riemann thuộc kiểu hyperbolic thông qua việc tồn tại một đầu mút modula. Ông cũng đưa ra những điều kiện để một diện Riemann thuộc lớp OHB, tức là trên đó không tồn tại hàm điều hoà giới nội khác hằng số. Từ sau hai công trình kể trên, Giáo sư Lê Văn Thiêm chuyển hẳn sang nghiên cứu các vấn đề toán học ứng dụng, theo chủ trương đưa khoa học ào phục vụ thực tiễn sản xuất và chiến đấu.

Toán học ứng dụng

Vốn là một chuyên gia về lý thuyết hàm phân hình và diện Riemann, những vấn đề của toán học lý thuyết, Giáo sư Lê Văn Thiêm chuyển sang nghiên cứu và lãnh đạo nhóm nghiên cứu về toán ứng dụng. Điều đáng ngạc nhiên là trong số các công trình đầu tiên của ong về toán ứng dụng có công trình trở thành kinh điển rong lĩnh vực này: lời giải tường minh của bài toán thấm qua hai lớp đất. Bài toán thâm là vấn đề có ý nghĩa thực tiễn quan trọng, xuất hiện khi tính toán sự bền vững của các đê, đập nước, trữ lượng dầu trong các túi dầu, vấn đề rửa mặn vùng ven biển. . . Trong nhiều bài toán thấm, chẳng hạn khi xét nước thấm qua một con đê dài, ta đi đến mô hình bào toán thấm phẳng (tức là không phụ thuộc một chiều nào đó). Với một số giả thiết chấp nhận được, việc mô hình hoá toán học đưa bài toán thấm qua một môi trường đồng chất về việc xây dựng mọt hàm chỉnh hình thực hiện ánh xạ bảo giác miền thấm lên nửa mặt phẳng. Đó là việc rất khó khăn về mặt toán học, vì miền thấm thường rất phức tạp. Tuy nhiên, ngay trong trường hợp đó, ta đã phải xét một mô hình khá xa thực tiến: môi trường mà nước thấm qua là “đồng chất”, tức là chỉ có một lớp đất với cùng một hệ số thấm. Trong thực tiễn, thường có nhiều lớp với hệ số thấm khác nhau nằm dưới một công trình thuỷ lợi: lớp đất cát, lớp đất cát,. . . Đối với những trường hợp miền thấm không đồng chất, cho đến trước công trình của Lê Văn Thiêm, người ta chỉ mới có các phương pháp giải ần đúng. Trong công trình Sur un problème d’infiltration à travers un sol à deux couches (Về bài toán thấm qua hai lớp đất) đăng trên tạp chí Acta Sci.Vietnam. 1, 1964, pp. 3-9, Lê Văn Thiêm đã dùng Nguyên lý đối xứng trong giải tích phức để xây dựng đuwocj nghệm tường minh cho bài toán thấm qua hai lớp đất vứi hệ số thấm khác nhau. Đây là công trình đầu tiên trong lĩnh vực lý thuyết nước thâm cho phép xây dựng nghiệm giải tích của bài toán thấm không đồng chất. Điều này đuuwocj khẳng định trong cuốn sách Lý thuyết chuyển động của nước ngầm của Palubarinova-Kochina xuất bản ở Matxcơva năm 1977.

Một hướng nghiên cứu ứng dụng mà Giáo sư Lê Văn Thiêm cùng các học trò của mình tiến hành trong nhiều năm là nổ định hướng. Phương pháp nổ định hướng do nhà toán học Nga Lavrenchiep đưa ra, dựa trên nguyên lý sau đây: khi có một vụ nổ lớn, dưới tác động của áp suất quá cao, các vật chất quanh tâm của vụ nổ chuyển động theo quy luật của chất lỏng lý tưởng, tức là không nhớt và không nén được. Chuyển động của chất lỏng lý tưởng có thể mô tả bằng một hàm giải tích. Nếu tìm được hàm giải tích này, ta có thể tính được áp lực quan tâm nổ, quỹ đạo chuyển động của vật chất gần tâm nổ. Nhận thấy đây là vấn đề có ý nghĩa thực tiễn lớn, Giáo sư Lê Văn Thiêm đã hướng dãn các học trò của mình tại Trường Đại học Tổng hợp Hà Nôi và Viện Toán học nghiên cứu áp dụng. Năm 1966, một nhóm các nhà toán học trẻ của hai cơ quan lên đường vào Nghệ An để tiến hành trên thực tế, Địa điểm làm việc là vùng Hoàng Mai thuộc địa phận huyện Quỳnh Lưu. Hoàng Mai là nơi gặp nhau của ba tuyến đường vào Nam: đường bộ, đường sắt, đường thuỷ (kênh Nhà Lê). Vì thế, đây trở thành một trong những trọng điểm đánh phá của máy bay Mỹ. Do đường sắt và đường bộ bị hư hại nghiêm trọng, việc vận chuyển qua kênh Nhà Lê trở nên rất quan trọng. Con kênh được đào thừ thời Lê nên đến nay đã cạn. Vấn đề cấp thiết đặt ra là phải nạo vét lòng kênh để các thuyền trọngt ải lớn có thể đi qua. Các đơn vị Tanh niên xung phong đuwocj giao nhiệm vụ nà. Tuy vậy, không thể tập trung một lực lượng lớn, vì má bay Mỹ bắn phá ngày đêm. Giáo sư Lê Văn Thiêm đề xuất dùng phương pháp nổ định hướng để nạo vét lòng kênh. Mục tiêu đặt ra là làm thế nào để sau khi nổ, hầu hết đất đá văng lên bờ, chứ không rơi lại xuống lòng kênh. Các vụ nổ được tiến hành vào lúc thuỷ triều xuống thấp nhất để có hiệu quả cao nhất. Vì vậy, nhiều lúc phải nổ vào những “giờ cao điểm”, tức là những giờ mà máy bay Mỹ bắn phá ác liệt nhất. Thực tế đã chứng tỏ, phương pháp nổ định hướng có tác dụng thiết thực, góp phần tăng khả năng vận chuyển qua kênh Nhà Lê, giảm nhẹ tổn thất về người và của. Phương pháp nổ định hướng đó cũng được áp dụng trong việc xây dựng những con đường chiến lược trong rừng. Các đơn vị Thanh niên xung phong đã cùng nhóm học trò nói trên của Giáo sư Lê Văn Thiêm áp dụng lý thuyết nổ định hướng trong việc phá đá, bạ ta-luy, hất những cây to chắn đường xuống vực trong quá trình làm đường. Giáo sư Lê Văn Thiêm đã viết tài liệu hướng dẫn cho Thanh niên xung phong để ho tự làm lấy sau khi nhóm nghiên cứu rút khỏi hiện trường. Tiếc rằng bản tài liệu đó ngày nay không tìm lại được.

Sau ngày Việt Nam tái thống nhất, Giáo sư Lê Văn Thiêm chuyển vào công tác tại Thành phố Hồ Chí Minh. Ông đã lập nên Phòng Toán học ứng dụng, nghiên cứu các vấn đề toán học đặt ra trong lý thuyết đàn hồi và chuyển động của chất lỏng nhớt. Các vấn đề toán học ứng dụng mà Giáo sư Lê Văn Thiêm quan tâm nghiên cứu đều là những vấn đề được đặt ra trong thực tiễn Việt Nam: xây dựng đê điều và các công trình thuỷ lợi, cải tạo các ruộng nhiễm mặn vùng ven biển, tính toán trữ lượng dầu khí, nạo vét lòng kênh để phục vụ giao thông thời chiến. Ngay khi giải quyết các nhiệm vụ ứng dụng trước mắt, với trình độ cao về khoa học cơ bản, ông đã có những đóng góp quan trọng vào sự phát triển của lý thuyết.

Toán học Việt Nam

Với những công trình khoa học xuất sắc, Giáo sư Lê Văn Thiêm là người viết trang đầu tiên cửa lịch sử toán học Việt Nam hiện đại. Ông cũng là một trong nhữn người đầu tiên đặt nền móng xây dựng toán học Việt Nam. Uy tín của ông đã từng là nguyên nhân khiến nhiều thanh niên tài năng tìm đường lên chiến khu Việt Bắc để nghiên cứu và giảng dạy toán học: Hoàng Tụy, Nguyễn Cảnh Toàn. Không chỉ lôi cuốn, khuyến khích họ bằng tiếng tăm của mình, Giáo sư Lê Văn Thiêm đã dồn tâm sức để đào tạo lớp thanh niên đầy nhiệt huyết của những ngày đầu cách mạng. “Vốn liếng” của ông khi đó thật ít ỏi, đó chỉ là một ít sách mà ông và một số giáo sư khác cố gắng mang theo mình suốt chặng đường từ Châu Âu đến chiến khu. Ông luôn khuyến khích những tài năng trẻ đi sâu vào nghiên cứu khoa học, và cố gắng tạo cho họ những điều kiện tốt nhất có thể. Ngay cả sau khi hoà bình lập lại, các trường đại học ở Việt Nam hầu như chưa có giáo trình đại học về toán bằng tiếng Việt. Vậy mà mọt trong những quyết tâm lớn của nhà nước Việt Nam mới là giảng dạy tiếng Việt ở bậc đại học. Lê Văn Thiêm đã dịch và viết các giáo trình, từ Hàm biến phức Xác suất thống kê.

Nhận thức rõ tầm quan trọng của Toán học trong việc xây dựng nền khoa học nước nhà, Giáo sư Lê Văn Thiêm cùng với các giáo sư Tạ Quang Bửu, Hoàng Tuỵ đã vạch một chiến lược lâu dài phát riển Toán học Việt Nam. Sự ra đời của Phòng Nghiên cứu Toán năm 1962 (trực thuộc Uỷ ban Khoa học và Kỹ thuật Nhà nước) là một cột mốc quan trọng trong quá trình xây dựng nền toán học Việt Nam. Năm 1969, THủ tướng Phạm Văn Đồng ký quyết định thành lập Viện Toán học thuộc Uỷ ban khoa học và Kỹ thuật nhà nước. Năm 1970, Giáo sư Lê Văn Thiêm, lúc đó đang là Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội, được chuyển về giữ chức vụ Phó Viện trưởng, phụ trách Viện Toán học. Từ lúc đó, Viện Toán học chính thức đi vào hoạt động. Với sự lãnh đạo của Giáo sư Lê Văn Thiêm, ngay từ khi thành lập, Phòng nghiên cứu Toán, sau này là Viện Toán học, đã chú trọng phát triển toàn diện: nghiên cứu cơ bản, nghiên cứu ứng dụng và đào tạo. Những sinh viên giỏi tốt nghiệp Đại học Tổng hợp Hà Nội và các địa học nước noài được chính Giáo sư Lê Văn Thiêm tuyển chọn về Viện Toán học, và được cử đi tiếp tục nghiên cứu, học tập ở nước ngoài. Chính nhờ chiến lược đào tạo cơ bản đó của Giáo sư Lê Văn Thiêm mà Viện Toán học, từ chỗ chỉ có hơn 20 cán bộ năm 1970, đến nay đã trở thành một Viện nghiên cứu hàng đầu cả nước.

Giáo sư Lê Văn Thiêm, cùng với Giáo sư Hoàng Tuỵ, là những người đầu tiên gây dựng Khoa Toán của Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội. Ông luôn kiên trì phương châm giữa vững chất lượng đào tạo, ngay cả trong những năm chiến tranh, khi nhà trường phải sơ tán vào vùng núi Việt Bắc. Ông cũng đã phải trải qua nhiều cuộc đấu tranh gay go trong nội bộ Khoa Toán và Trường Đại học Tổng hợp trong những năm 60 của thế kỷ 20 để giữ vứng chiến lược đúng đắn đó. Nhờ thế, Khoa Toán của Đại học Tổng hợp Hà Nội (nay là Đại học Khoa học Tự nhiên thuộc Đại học quốc gia Hà Nội) đã dào tạo nên nhiều nhà toán học hàng đầu trong cả nước.

Giáo sư Lê Văn Thiêm cũng là Chủ tịch đâù tiên của Hội Toán học Việt Nam. Với uy tín, tài năng và đức độ của mình, Giáo sư là người lãnh đạo, cũng đồng thời là hạt nhân gắn kết cộng đồng toán học Việt Nam.

Suốt đời hết lòng vì thế hệ trẻ, Giáo sư Lê Văn Thiêm là một trong những người sáng lập tờ báo Toán học và Tuổi trẻ, và trực tiếp viết bài cho báo ngay từ những số đầu tiên. Ông cũng trực tiếp ra đề thi chọn học sinh giỏi toàn Miền Bắc những năm 1963-1964. Ngay khi cả nước đang trong chiến tranh, máy bay Mỹ bắn phá dữ dội Miền ắc, Giáo sư Lê Văn Thiêm là người đứng ra sáng lập tờ báo Toán học và Vật lý bằng tiếng nước ngoài đầu tiên của Việt Nam: tờ Acta Scientiarum Vietnamicarum (Sectio Mathematicarum et Physicarum).

Phần toán học của tờ báo đó ngày nay trở thành tờ Acta Mathematica Vietnamica, tờ báo có uy tín nhất về toán của Việt Nam, có mặt ở thư viện của nhiều trường đại học lớn trên thế giới. Việc cho ra đời một tờ báo nghiên cứu toán học (bằng tiếng Anh, Pháp, Nga, Đức) trong chiến tranh là điều hiếm có trên thế giới. Nhiều nhà khoa học nước ngoài đã tỏ ý ngạc nhiên và khâm phục khi thấy Việt Nam, một đất nước đang phải đương đầu với cuộc chiến tranh tàn khốc ở cả hai miền, lại nghĩ đến việc ra một tờ tạp chí nghiên cứu khoa học bằng tiếng nước ngoài. Việc làm đó chứng tỏ tầm nhìn xa của các nhà lãnh đạo khoa học Việt nam, và cả sự tin tưởng vào thắng lợi tất yếu của sự nghiệp cách mạng.

Sự phát triển của Toán học Việt Nam, và của khoa học cơ bản Việt Nam nói chung từ sau Cách mạng Tháng Tám mang đậm dấu ấn của Giáo sư Lê Văn Thiêm.

Tham khảo