Mục từ này cần được bình duyệt
K2
Phiên bản vào lúc 21:46, ngày 22 tháng 12 năm 2022 của Marrella (Thảo luận | đóng góp)
K2, nhìn từ Broad Peak Base Camp ở độ cao gần 5.000 m.
Sườn Bắc của K2 ở bên Trung Quốc. Vào năm 1982 một nhóm người Nhật đã leo lên đỉnh theo đường Sống núi Bắc (ở giữa) được xem là con đường gian nan.[1]

K2 là ngọn núi cao thứ hai trên thế giới với độ cao 8.611 m, thấp hơn Everest 237 m.[2] K2 thuộc dãy Karakoram, nằm ở miền Bắc Pakistan gần biên giới với Trung Quốc.[3] Tên gọi K2 do Thomas George Montgomerie, một sĩ quan người Anh, đặt vào năm 1856 trong một cuộc khảo sát.[4][5] Montgomerie phác họa các đỉnh núi ở dãy Karakoram và ký hiệu chúng là K kèm số thứ tự, với K là viết tắt của Karakoram.[4][5] Các chỉ tên khác về sau tìm được tên địa phương, như K1 là Masherbrum, hay K3, K4, K5 là các đỉnh Gasherbrum,[6] nhưng K2 thì không do vị trí hẻo lánh.[5] Sau này dù có nhiều đề xuất đổi tên nhưng do không đạt đồng thuận, K2 duy trì là tên gọi chính thức.[4][5]

Henry Haversham Godwin-Austen có lẽ là người đầu tiên trông thấy ngọn núi ở khoảng cách gần (25 km) vào năm 1861 và K2 còn có tên Godwin-Austen trên một số bản đồ.[5][7] Con người thử chinh phục K2 lần đầu vào năm 1902 nhưng nhóm các nhà leo núi khi ấy đã phải bỏ cuộc ở độ cao 6.525 m.[8] Achille Compagnoni và Lino Lacedelli là những người đầu tiên leo lên đỉnh K2 vào ngày 31 tháng 7 năm 1954.[9][10] Chuyến leo thành công thứ hai là vào ngày 9 tháng 8 năm 1977 của một đội do Ichiro Yoshizawa dẫn đầu.[11] Tháng 1 năm 2021, K2 trở thành ngọn núi cao hơn 8.000 m cuối cùng được chinh phục vào mùa đông, thử thách hoàn thành bởi một đội Nepal.[3]

Trong số 14 ngọn núi cao nhất thế giới trên 8.000 m, K2 được xem là khó leo và nguy hiểm hàng đầu.[12]

Tham khảo

  1. Hayes 2018, tr. 20.
  2. Szymczak, Robert; Pyka, Michał; Grzywacz, Tomasz; Marosz, Michał; Naczyk, Marta; Sawicka, Magdalena (ngày 16 tháng 3 năm 2021), "Comparison of Environmental Conditions on Summits of Mount Everest and K2 in Climbing and Midwinter Seasons", International Journal of Environmental Research and Public Health, 18 (6): 3040, doi:10.3390/ijerph18063040, PMC 8000062, PMID 33809531, S2CID 232382391
  3. a b Wilkinson, Freddie (ngày 16 tháng 1 năm 2021), "Nepali mountaineers achieve historic winter first on K2", nationalgeographic.com, National Geographic, truy cập ngày 15 tháng 12 năm 2022
  4. a b c Sale 2011, Chapter 1.
  5. a b c d e Conefrey 2016, Prologue.
  6. Houston & Bates 2020, Chapter 2.
  7. Sale 2011, Chapter 2.
  8. Hayes 2018, tr. 15.
  9. Lacedelli, Lino; Cenacchi, Giovanni (2006), "Book Description", mountaineers.org, The Mountaineers, truy cập ngày 21 tháng 12 năm 2022
  10. Martin, Douglas (ngày 28 tháng 11 năm 2009), "Lino Lacedelli Dies at 83; One of First to Scale K2", nytimes.com, The New York Times, truy cập ngày 21 tháng 12 năm 2022
  11. Hayes 2018, tr. 19.
  12. Houston & Bates 2020, Foreword.

Sách

  • Viesturs, Ed; Roberts, David (2010), K2: Life and Death on the World's Most Dangerous Mountain, Crown, ISBN 978-0-7679-3260-8
  • Sale, Richard (2011), The Challenge of K2: A History of the Savage Mountain, Casemate Publishers, ISBN 978-1-84468-702-2
  • Houston, Charles; Bates, Robert (2020), K2, The Savage Mountain: The Classic True Story Of Disaster And Survival On The World's Second-Highest Mountain, Rowman & Littlefield, ISBN 978-1-4930-5025-3
  • Conefrey, Mick (2016), Ghosts of K2: The Race for the Summit of the World's Most Deadly Mountain, Simon and Schuster, ISBN 978-1-78607-023-4
  • Hayes, Adrian (2018), One Man's Climb: A Journey of Trauma, Tragedy and Triumph on K2, Pen and Sword, ISBN 978-1-5267-4538-5