Mục từ này cần được bình duyệt
Ngân Hà
Phiên bản vào lúc 00:59, ngày 29 tháng 9 năm 2024 của Marrella (Thảo luận | đóng góp)
(khác) ← Phiên bản cũ | xem phiên bản hiện hành (khác) | Phiên bản mới → (khác)
Cảnh tượng Ngân Hà hướng về chòm sao Nhân Mã (bao gồm tâm Ngân Hà) từ Sa mạc Black Rock, Nevada, Hoa Kỳ.

Ngân Hàthiên hà chứa Hệ Mặt Trời của chúng ta.[1] Nhìn từ Trái Đất vào buổi đêm, Ngân Hà hiện lên như một dải ánh sáng mờ vắt qua bầu trời.[2] Con người đã trông thấy dải ánh sáng này từ thuở ban sơ,[3] thế nhưng phải đến đầu thế kỷ 17 Galileo Galilei nhờ kính viễn vọng mới khám phá ra ánh sáng của nó đến từ vô số vì sao đơn lẻ.[4] Vào năm 1785 William và Caroline Herschel vận dụng phương pháp đếm số sao trên bầu trời đã đi đến kết luận Ngân Hà có dạng đĩa phẳng[↓ 1]Mặt Trời nằm gần tâm đĩa.[7] Giờ thì chúng ta biết rằng Ngân Hà đúng là có dạng đĩa, nhưng Mặt Trời không nằm gần tâm của nó.[8]

Ngân Hà là thiên hà xoắn ốc có thanh[9] chứa một phần đĩa tròn, quay, sáng nhất có đường kính khoảng 100.000 năm ánh sáng[10] và độ dày 2.000 năm ánh sáng.[11] Sao, khí và bụi không phân bổ đều khắp đĩa mà tập trung ở thanh giữa và các nhánh xoắn ốc.[12] Ở trung tâm, tập hợp các ngôi sao tạo thành một chỗ phình có dạng ellipsoid, rộng 20.000 năm ánh sáng[13] và dày 10.000 năm ánh sáng.[14] Trái ngược với đĩa là nơi có nhiều sao tương đối trẻ, đa số sao ở chỗ phình là sao khổng lồ đỏ già.[15] Bao quanh đĩa và chỗ phình là quầng dạng cầu chứa các cụm sao cầu và sao già rải rác.[16] Tổng khối lượng của Ngân Hà là khoảng 1,08×1012 lần khối lượng Mặt Trời, trong đó vật chất tối chiếm đến khoảng 90%.[17] Số lượng sao trong Ngân Hà là hơn 100 tỷ,[18] và Ngân Hà cũng chỉ là một trong số hơn 100 tỷ thiên hà ở vũ trụ.[↓ 2][20]

Toàn bộ Ngân Hà đang quay và mỗi ngôi sao quay theo một quỹ đạo riêng quanh tâm Ngân Hà.[21] Sao càng gần tâm thì càng hoàn thành quỹ đạo sớm hơn,[22] điều này có thể lý giải cho sự hình thành các nhánh xoắn ốc nhưng cấu trúc này không tồn tại vĩnh viễn.[23] Mặt Trời nằm gần rìa trong của một nhánh ngắn tên là Orion,[24] cách tâm khoảng 27.000 năm ánh sáng.[25] Tâm của Ngân Hà nằm về hướng chòm sao Nhân Mã và ở đó tồn tại một nguồn sóng vô tuyến lạ không có dấu hiệu chuyển động.[26] Nguồn này, tên gọi Nhân Mã A*, gần như là một lỗ đen siêu khối lượng có khối lượng gấp 4 triệu lần Mặt Trời trong khi kích cỡ chỉ bằng 17 lần.[27]

Ngân Hà hình thành vào khoảng 13 tỷ năm trước từ một đám mây tiền thiên hà có dạng gần cầu chứa hydro và heli.[28] Vài trăm triệu năm sau, đám mây này suy sụp bởi lực hấp dẫn, cuối cùng tạo ra một đĩa mỏng quay.[29] Một mô hình khác chỉ ra Ngân Hà hình thành từ sự sáp nhập các đám khí nhỏ hơn và quá trình tương tự vẫn đang diễn ra.[30] Các thiên hà nhỏ ở quá gần Ngân Hà bị giằng xé và các ngôi sao của chúng bị kéo vào quỹ đạo quay trong quầng Ngân Hà, tạo ra những dòng sao.[31] Trong tương lai, khoảng 4 tỷ năm tới, Ngân Hà sẽ va chạm với thiên hà Tiên Nữ và 2 tỷ năm sau đó chúng sẽ hợp nhất thành một thiên hà.[32]

Ngân Hà là thiên hà lớn thứ hai trong Nhóm Địa phương, một nhóm gồm hơn 50 thiên hà có phạm vi 10 triệu năm ánh sáng.[33] Nhiều thiên hà nhỏ hơn trong nhóm này là vệ tinh của Ngân Hà, tiêu biểu như Đám mây Magellan LớnĐám mây Magellan Nhỏ.[34] Cũng giống Ngân Hà, hai thiên hà chính còn lại là Tiên Nữ và Tam Giác đều là thiên hà xoắn ốc.[35]

Tên gọi Ngân Hà là một từ Hán Việt có nghĩa dòng sông bạc hay dòng sông màu trắng, như một sự liên tưởng từ hình ảnh của nó trên bầu trời đêm.[↓ 3]

Chú thích[sửa]

  1. Hoặc dạng bánh xe[5] hay đá mài.[6]
  2. Một nghiên cứu năm 2016[19] ước tính vũ trụ quan sát thấy có khoảng 2.000 tỷ thiên hà, gấp nhiều lần suy nghĩ trước kia.[20]
  3. Từ này có gốc tiếng Hán: ngân (銀) là "bạc, trắng", (河) là "sông". Có thể tra cứu tại các loại từ điển khác nhau.

Tham khảo[sửa]

  1. Greenstein 2013, tr. 453.
  2. Bennett et al. 2016, tr. 581; Greenstein 2013, tr. 454; Nicolson 1999, tr. 197; Fraknoi et al. 2016, tr. 895.
  3. Nicolson 1999, tr. 197; Waller 2013, tr. 10.
  4. Bennett et al. 2016, tr. 581; Nicolson 1999, tr. 197; Fraknoi et al. 2016.
  5. Fraknoi et al. 2016, tr. 896.
  6. Greenstein 2013, tr. 458.
  7. Fraknoi et al. 2016, tr. 896; Nicolson 1999, tr. 198.
  8. Nicolson 1999, tr. 198; Bennett et al. 2016, tr. 581.
  9. Nicolson 1999.
  10. Bennett et al. 2016, tr. 581; Fraknoi et al. 2016, tr. 899; Waller 2013, tr. 82.
  11. Nicolson 1999, tr. 198; Fraknoi et al. 2016, tr. 899; Waller 2013, tr. 244.
  12. Fraknoi et al. 2016, tr. 900.
  13. Nicolson 1999, tr. 198; Fraknoi et al. 2016, tr. 901; Waller 2013, tr. 222.
  14. Waller 2013, tr. 222.
  15. Nicolson 1999, tr. 200; Waller 2013, tr. 224.
  16. Nicolson 1999, tr. 200; Fraknoi et al. 2016, tr. 902.
  17. Cautun et al. 2020, tr. 1, 19.
  18. Nicolson 1999, tr. 198; Waller 2013, tr. 82; Bennett et al. 2016, tr. 581.
  19. Conselice et al. 2016.
  20. a b Castelvecchi 2016.
  21. Nicolson 1999, tr. 200; Bennett et al. 2016, tr. 582.
  22. Nicolson 1999, tr. 200.
  23. Fraknoi et al. 2016, tr. 907–908; Greenstein 2013, tr. 465–466.
  24. Fraknoi et al. 2016, tr. 906.
  25. Nicolson 1999, tr. 198; Bennett et al. 2016, tr. 581; Waller 2013, tr. 52.
  26. Nicolson 1999, tr. 203; Bennett et al. 2016, tr. 597.
  27. Fraknoi et al. 2016, tr. 915; Bennett et al. 2016, tr. 597.
  28. Fraknoi et al. 2016, tr. 921; Bennett et al. 2016, tr. 595.
  29. Fraknoi et al. 2016, tr. 921–922; Bennett et al. 2016, tr. 595.
  30. Bennett et al. 2016, tr. 595–596.
  31. Fraknoi et al. 2016, tr. 922–924.
  32. Cowen 2012.
  33. Redd 2017.
  34. Nicolson 1999, tr. 213–214; Redd 2017.
  35. Nicolson 1999, tr. 213.

Tạp chí[sửa]

  • Cautun, Marius; Benítez-Llambay, Alejandro; Deason, Alis J; Frenk, Carlos S; Fattahi, Azadeh; Gómez, Facundo A; Grand, Robert J J; Oman, Kyle A; Navarro, Julio F; Simpson, Christine M (ngày 17 tháng 4 năm 2020), "The milky way total mass profile as inferred from Gaia DR2", Monthly Notices of the Royal Astronomical Society, 494 (3): 4291–4313, arXiv:1911.04557v2, Bibcode:2020MNRAS.494.4291C, doi:10.1093/mnras/staa1017, S2CID 207863711
  • Conselice, Christopher J.; Wilkinson, Aaron; Duncan, Kenneth; Mortlock, Alice (ngày 13 tháng 10 năm 2016), "The Evolution of Galaxy Number Density at z < 8 and its Implications", The Astrophysical Journal, 830 (2): 83, arXiv:1607.03909v2, doi:10.3847/0004-637X/830/2/83, S2CID 17424588
  • Castelvecchi, Davide (ngày 14 tháng 10 năm 2016), "Universe has ten times more galaxies than researchers thought", Nature, doi:10.1038/nature.2016.20809, S2CID 125550751
  • Cowen, Ron (ngày 31 tháng 5 năm 2012), "Andromeda on collision course with the Milky Way", Nature, doi:10.1038/nature.2012.10765, S2CID 124815138
  • Redd, Nola Taylor (ngày 18 tháng 12 năm 2017), "Astronomers track dwarf galaxies to better understand the Milky Way's make-up and evolution", Proceedings of the National Academy of Sciences, 115 (51): 12836–12838, doi:10.1073/pnas.1817136115, PMC 6304947, PMID 30568025, S2CID 58645004

Sách[sửa]