Mục từ này cần được bình duyệt
Sao Kim
Phiên bản vào lúc 16:51, ngày 19 tháng 12 năm 2021 của Marrella (Thảo luận | đóng góp)
Ảnh ghép màu giả Sao kim từ Mariner 10 với mây mờ che phủ hoàn toàn bề mặt (7 tháng 2 năm 1974).[1]

Sao kimhành tinh thứ hai tính từ Mặt trời[2] và là vật thể tự nhiên sáng nhất trên bầu trời đêm của Trái đất sau Mặt trăng.[3] Sao kim quanh một vòng quanh Mặt trời hết 224,7 ngày Trái đất.[4] Ngày Mặt trờingày thiên văn của Sao kim lần lượt là 117 và 243 ngày Trái đất. Sao kim quay quanh trục lâu hơn mọi hành tinh khác trong Hệ Mặt trời và nó quay ngược chiều với tất cả trừ Sao Thiên Vương.[5] Do đó trên hành tinh này Mặt trời sẽ mọc ở đằng tây và lặn đằng đông.[6] Sao kim không có vệ tinh tự nhiên giống như Sao thủy,[5] điều khác biệt với mọi hành tinh còn lại trong Hệ Mặt trời.

Sao kim là hành tinh đất đá[5] và đôi khi được gọi là "hành tinh chị em" của Trái đất[5] vì có nhiều điểm tương đồng như kích cỡ, khối lượng, thành phần, khoảng cách tới Mặt trời.[7][3] Tuy nhiên bên cạnh đó nó cũng có những điểm rất khác Trái đất.[7] Khí quyển Sao kim đặc và nóng hơn nhiều, trong đó carbon dioxide chiếm tới 96,5%.[8] Áp suất khí quyển tại bề mặt Sao kim bằng khoảng 93 lần áp suất khí quyển tại mực nước biển Trái đất.[4] Mặc dù Sao thủy là hành tinh gần Mặt trời hơn nhưng Sao kim mới là hành tinh có bề mặt nóng nhất trong Hệ Mặt trời với nhiệt độ trung bình 737 K (464 °C, 867 °F).[4] Sao kim bị che phủ bởi một lớp mây mờ acid sulfuric khiến không thể quan sát bề mặt của nó bằng ánh sáng thường từ không gian.[9] Trong quá khứ có thể từng có những đại dương nước tồn tại trên hành tinh này[10][3] nhưng chúng đã bay hơi hết khi mà nhiệt độ tăng do hiệu ứng nhà kính mất kiểm soát. Hơi nước khả năng đã bị quang ly[11] và hydro tự do bị gió mặt trời thổi bay vào không gian liên hành tinh do thiếu vắng từ trường.

Do ở gần Trái đất, Sao kim là mục tiêu thăm dò được chú ý ban đầu. Đây là hành tinh đầu tiên ngoài Trái đất được một tàu không gian ghé thăm (Mariner 2 năm 1962)[12] và đổ bộ thành công (Venera 7 năm 1970).[12] Lớp mây dày khiến cho việc quan sát bề mặt của Sao kim trong phổ khả kiến là không thể và đến năm 1991 mới có bản đồ chi tiết đầu tiên nhờ tàu Magellan.[13] Các kế hoạch đưa xe tự hành hay những nhiệm vụ phức tạp hơn đã được đề xuất nhưng gặp trở ngại bởi điều kiện bề mặt khắc nghiệt. Từ lâu con người đã xét đoán về khả năng tồn tại sự sống trên hành tinh này và công tác nghiên cứu hiện vẫn tiếp tục.[14] Cơ hội cho sự sống ngày nay tuy thấp nhưng có và có lẽ chỉ ở trong những lớp mây khí quyển.[10][14]

Trong tiếng Việt, Sao kim còn có những tên gọi khác như Sao hôm và Sao mai liên quan đến việc hành tinh này đạt độ sáng lớn nhất gần lúc bình minh hay hoàng hôn.[15]

Đặc tính vật lý

So sánh kích cỡ Trái đất và Sao kim.

Sao kim là một trong bốn hành tinh đất đá trong Hệ Mặt trời. Nó có kích cỡ, khối lượng gần như Trái đất và thường được mô tả là hành tinh "chị em" hay "song sinh" của Trái đất. Sao kim có bán kính 6.052 km, bằng 95% bán kính Trái đất;[16] còn khối lượng bằng 81,5%.[4] Môi trường bề mặt của hành tinh này khác hoàn toàn bởi khí quyển đặc chủ yếu là carbon dioxide (chiếm 96,5%) và hầu hết phần còn lại là nitơ.[8] Áp suất bề mặt là 93,3 bar và nhiệt độ bề mặt trung bình là 737 K (464 °C; 867 °F).[4]

Tham khảo

  1. Gill, Kevin M. (ngày 8 tháng 6 năm 2020), "Newly-Processed Views of Venus from Mariner 10", solarsystem.nasa.gov, NASA/JPL-Caltech, truy cập ngày 19 tháng 12 năm 2021
  2. Tsang, Constantine, Venus, McGraw-Hill Professional, doi:10.1036/1097-8542.730100, truy cập ngày 13 tháng 12 năm 2021
  3. a b c Taylor, Fredric W.; Svedhem, Håkan; Head, James W. (ngày 23 tháng 1 năm 2018), "Venus: The Atmosphere, Climate, Surface, Interior and Near-Space Environment of an Earth-Like Planet", Space Science Reviews, 214 (1), Bibcode:2018SSRv..214...35T, doi:10.1007/s11214-018-0467-8, S2CID 117058484
  4. a b c d e Catling & Kasting 2017, tr. 371.
  5. a b c d Grego 2008, tr. 72.
  6. Grego 2008, tr. 73.
  7. a b Basilevsky, Alexander T; Head, James W (ngày 10 tháng 9 năm 2003), "The surface of Venus", Reports on Progress in Physics, 66 (10): 1699–1734, Bibcode:2003RPPh...66.1699B, doi:10.1088/0034-4885/66/10/R04, S2CID 13338382
  8. a b Catling & Kasting 2017, tr. 370.
  9. Catling & Kasting 2017, tr. 373.
  10. a b Izenberg, Noam R.; Gentry, Diana M.; Smith, David J.; Gilmore, Martha S.; Grinspoon, David H.; Bullock, Mark A.; Boston, Penelope J.; Słowik, Grzegorz P. (ngày 1 tháng 10 năm 2021), "The Venus Life Equation", Astrobiology, 21 (10): 1305–1315, Bibcode:2021AsBio..21.1305I, doi:10.1089/ast.2020.2326
  11. Catling & Kasting 2017, tr. 381.
  12. a b Siddiqi 2018, tr. 1.
  13. Siddiqi 2018, tr. 173.
  14. a b Seager, Sara; Petkowski, Janusz J.; Gao, Peter; Bains, William; Bryan, Noelle C.; Ranjan, Sukrit; Greaves, Jane (ngày 1 tháng 10 năm 2021), "The Venusian Lower Atmosphere Haze as a Depot for Desiccated Microbial Life: A Proposed Life Cycle for Persistence of the Venusian Aerial Biosphere", Astrobiology, 21 (10): 1206–1223, Bibcode:2021AsBio..21.1206S, doi:10.1089/ast.2020.2244, PMID 32787733
  15. Đặng Vũ Tuấn Sơn (2016), Từ điển Thiên văn học và Vật lý thiên văn, NXB Tri thức, tr. 378
  16. Spohn, Breuer & Johnson 2014, tr. 325.

Sách