Quốc danh Việt Nam/đang phát triển
Phiên bản vào lúc 03:22, ngày 5 tháng 10 năm 2020 của Hadubrandlied (Thảo luận | đóng góp)
Bảng kê danh xưng chính thức và không chính thức trong trường kì lịch sử tại lĩnh thổ tương ứng Việt Nam ngày nay.
Quốc danh
- Tồn nghi
Hầu hết ở thời sơ sử, chưa có cứ liệu xác minh thỏa đáng ở cấp độ khoa học.
Thời gian | Quốc danh | Chính thể |
---|---|---|
2879 - 2524 TCN | Xích Quỷ 赤鬼 |
Hồng Bàng thị - Hùng vương |
2524 - 258 TCN | Văn Lang Urang 文郎 |
Hồng Bàng thị - Hùng vương |
257 - 207 / 179 TCN | Âu Lạc Anak 甌雒 |
Hồng Bàng thị - An Dương vương |
40 - 43 | Lĩnh Nam 嶺南 |
Hồng Bàng thị - Trưng vương |
- Chính thức
Hầu như tồn tại ở giai đoạn đã có hiện vật bằng văn bản và thông qua khảo cổ, được chứng nhận ở cấp độ khoa học.
Thời gian | Quốc danh | Chính thể |
---|---|---|
111 TCN - 938 1407 - 1427 |
Giao Chỉ[1] 交趾 / 交阯 |
Bắc thuộc |
203 - 544 602 - 607 |
Giao châu 交州 |
Bắc thuộc |
544 - 602 | Vạn Xuân 萬春 |
Tiền Lý triều |
679 - 757 766 - 866 |
An Nam 安南 |
Bắc thuộc |
757 - 766 | Trấn Nam 鎮南 |
Bắc thuộc |
866 - 965 | Tĩnh Hải 靜海 |
Bắc thuộc |
968 - 1054 | Đại Cồ Việt[2] 大瞿越 |
Đinh triều Tiền Lê triều Lý triều |
1054 - 1400 1428 - 1804 |
Đại Việt[3] 大越 |
Lý triều Trần triều Hậu Lê triều Mạc triều Tây Sơn triều Nguyễn triều |
1400 - 1407 | Đại Ngu 大虞 |
Hồ triều |
1804 - 1839 | Việt Nam 越南 |
Nguyễn triều |
1839 - 1945 | Đại Nam 大南 |
Nguyễn triều |
Quốc hiệu
Chỉ xuất hiện từ cuối thế kỉ XIX theo xu hướng thế giới, được công nhận ở giác độ khoa học.
- Đại Nam đế quốc hoặc Empire d'Annam (1858? - 1945) : Chỉ tồn tại trong các văn kiện giao thiệp giữa Nguyễn triều và chính phủ Pháp, được dập trên xu piastre.
- Union indochinoise (1887 - 1945), Fédération indochinoise (1947 - 1953) hoặc Liên bang Đông Dương.
- Đế quốc Việt Nam : 11 tháng 03 năm 1945 - 23 tháng 08 năm 1945.
Xem thêm
Tham khảo
- ↑ Theo giáo sư Trần Như Vĩnh Lạc (Đoàn Thế Ngữ), chữ giao-chỉ (交趾, 交阯) có lẽ là kí âm Việt (cổ âm : K'yượt, gượt, vượt).
- ↑ Theo khảo cổ gia Nguyễn Thị Hậu, cồ-việt có thể tương tự trường hợp giao-chỉ về ý nghĩa, tức đọc Việt (越) theo lối cổ. Vậy Đại Cồ Việt là 大越.
- ↑ Theo bà Nguyễn Thị Hậu, đại-việt là sự chuẩn hóa mới lối phát âm quốc danh của Lý triều, nhưng nguyên nghĩa.