Tĩnh Hải quân (Hán văn : 靜海軍, Quảng thoại : Zing-hoi gwan) là khu vực hành chính Trung Hoa tương ứng mạn Nam Ngũ Lĩnh tới Hoành Sơn quan ngày nay, tồn tại giai đoạn 866 - 968.
Lịch sử
Niên hiệu Hàm Thông thứ 7 (866), hoàng đế Đường Ý Tông thuận thỉnh tấu của quan kinh lược Cao Biền mà nâng An Nam đô hộ phủ thành Tĩnh Hải quân[1]. Nhờ công lao dẹp loạn Nam Chiếu, đại thần Cao Biền được trọng nhậm tiết độ sứ[2], tùy nghi hành sự tại đất Lĩnh Nam[3].
Tĩnh Hải quân ở giai đoạn đầu (866 - 931) tương đối ổn định nhờ sự hậu thuẫn của triều đình Trung Châu, giai đoạn sau (931 - 9658) càng lúc càng biến động do chính quyền trung ương không kiềm chế được các thế lực địa phương, mà bản thể hình thái chính quyền này cũng liên tục đổi ngôi và càng không đủ tính chính danh.
Tĩnh Hải quân (866 - 907)
Theo chuyên khảo của tiến sĩ Li Tana, sau loạn An Sử, Đường triều nhìn chung đã suy không kiểm soát được biên viễn. Do mức trù phú và ổn định suốt nhiều thế kỉ, vùng Lĩnh Nam trở thành mục tiêu của nhiều thế lực mới nổi xung quanh, mà cuộc xâm lăng tàn khốc của Đại Lễ quốc chỉ là tất yếu.
Trong thời kì 858 - 865, quân Nam Chiếu liên tục tràn xuống An Nam, đặc biệt hạ lưu Hồng hà, các quan trấn thủ và tướng lĩnh Đường triều cự không nổi phải triệt thoái. Mãi tới năm 866, triều đình trung ương mới cử một văn thần là Cao Biền đẩy lui được. Tuy nhiên, từ vị thế có mật độ dân số lớn nhất Trung Châu, Lĩnh Nam lúc này thưa người do bị bách hại hoặc bỏ chạy. Cũng từ vị thế độc tôn hải thương Trung Hoa, An Nam phải nhượng quyền cho lưu vực Quảng Châu. Tuy vậy, cho tới đầu thế kỉ XX, Tĩnh Hải quân tạm duy trì ổn định.
Khúc chủ (907 - 923)
Năm 907, nhân Hậu Lương Thái Tổ truất quyền tiết độ sứ Độc Cô Tổn, chưa kịp bổ nhậm quan viên mới, một hào trưởng Hồng châu là Khúc Hạo đem võ sĩ vào chiếm châu trị Đại La, xưng tiết độ sứ. Triều Lương vì ở quá xa, quyền bính còn bất ổn, nên tạm công nhận họ Khúc. Tuy nhiên, qua năm sau, Thái Tổ đế phong quan thị trung Lưu Ẩn chức Quảng châu tiết độ sứ kiêm Tĩnh Hải quân tiết độ sứ, tước Nam Bình vương. Họ Lưu viện cớ này để đòi họ Khúc trao quyền bính Lĩnh Nam.
Năm 911, tiết độ sứ Lưu Ẩn mất, em là Lưu Nghiễm kế nghiệp và bắt đầu dựng tự chủ. Khúc chủ bèn phong con hoặc em là Thừa Mĩ làm khuyến hảo sứ/hoan hảo sứ, sang Phiên Ngung thông hiếu và dò la binh tình. Năm 917, Lưu Yểm cải danh thành Lưu Trắc, xưng đế và li khai triều Lương. Cũng năm ấy, Khúc chủ Hạo mất, sứ thần Thừa Mĩ phải về chịu tang và kế vị. Họ Lưu đặt quốc danh Đại Việt, rồi Đại Hán, mà sử gọi Nam Hán, tiến hành thu phục Tĩnh Hải quân bằng võ lực. Khúc chủ Thừa Mĩ viện cớ họ Lưu tạo phản mà xin triều Lương công nhận, sai sứ sang Biện Lương cầu thân với ý định dựa thế lực lớn hơn giữ lộc vị.
Giao châu (923 - 938)
Năm 923, khi Hậu Lương triều đổ, Nam Hán đế dấy binh công kích, Khúc chủ thua và bị điệu về Phiên Ngung. Triều Nam Hán đổi Tĩnh Hải quân thành Giao châu thuộc Đại Hán quốc, lại cho quan viên Lý Tiến làm thứ sử, tướng Lý Khắc Chính làm trấn thủ Đại La thành. Tình thế Giao châu tạm yên thêm mấy năm.
- Dương thị phục vị
Năm 931, nhân Khúc chủ Thừa Mĩ mất tại Phiên Ngung, một bộ tướng cũ người Ái châu là Dương Diên Nghệ (vốn được Nam Hán đế phong Ái châu thứ sử) đem dũng sĩ ra Đại La đoạt quyền thứ sử Lý Tiến, tự xưng Tĩnh Hải quân tiết độ sứ và bất phục triều Nam Hán.
- Kiểu thị đoạt vị
Năm 937, nha tướng Kiểu Công Tiễn tạo phản, hạ sát tiết độ sứ họ Dương và chiếm quyền. Năm 938, một người rể Dương Diên Nghệ là Ngô Quyền lại đem quân vào Đại La diệt Kiểu tiếm chủ, cũng xưng tiết độ sứ, kết thúc nội biến.
Ngô vương (938 - 965/8)
Thừa cơ Giao châu biến động, Nam Hán đế sai hoàng trưởng tử Lưu Hoằng Tháo đem binh thuyền sang phục quyền. Tuy nhiên, quân Nam Hán thất trận Bạch Đằng, chủ soái Lưu Hoằng Tháo cũng vong mạng, Nam Hán phải bỏ hẳn Lĩnh Nam.
- Tiền Ngô vương
Năm 939, tiết độ sứ Ngô Quyền xưng vương. Do Trung Châu bấy giờ đều rối ren, Ngô vương Quyền thực tế là nhà cai trị tối cao tại Tĩnh Hải quân. Ông cho định đô tại Cổ Loa thành.
- Dương Bình vương
Năm 944, Ngô vương Quyền mất. Thê đệ Dương Thiệu Hồng tiếm vị, đích tử Ngô Xương Ngập phải chạy trốn, tuy nhiên họ Dương đem người kế tử Ngô Xương Văn về nuôi. Nhân cơ hội này, sứ quân trỗi dậy khắp nơi và không thần phục triều đình trung ương. Sử gọi Thập nhị sứ quân chi loạn.
- Hậu Ngô vương / Thập nhị sứ quân
Theo chuyên khảo của tiến sĩ Trần Trọng Dương, cả nhân vật Ngô Quyền cho tới các sứ quân đều từng là giả tử của thứ sử Ái châu Dương Diên Nghệ hoặc ít nhiều liên đới từ lâu. Vì thế, cuộc nội biến do người con Dương Diên Nghệ là nguyên cớ để sứ quân bất phục. Cũng theo tiến sĩ Trần Trọng Dương, trái quan niệm trong học giới thế kỉ XX, thực tế Đinh bộ lĩnh hầu như là sứ quân quật khởi ban đầu[4][5]. Các sứ quân vừa tranh đấu vừa đổi con tin để thủ thế, có những sứ quân chỉ thuần biện pháp cầu thân chứ không dụng võ lực.
Năm 950, vương tử Ngô Xương Văn truất tiếm chủ Dương Thiệu Hồng, giáng làm Chương Dương sứ. Bản thân xưng Nam Tấn vương, đón bào huynh Ngô Xương Ngập về phong Nam Sách vương, tước thái thượng vương, cùng trị quốc. Nhiều tài liệu hậu hiện đại thường gọi thời hai vua.
Năm 954, Nam Sách vương mất. Năm 965, Nam Tấn vương cũng vong trận. Triều Ngô không người trực hệ kế nghiệp, tới đây [dường như] cáo chung.
Tuy nhiên, theo Khâm định Việt sử thông giám cương mục (thế kỉ XIX), Nam Sách vương có người đích tử Ngô Xương Xí thuộc đàng ngoại tiếm chủ Dương Thiệu Hồng. Ở thời điểm 965, tiếm chủ Dương Thiệu Hồng đã xuôi về mạn Tùng Khê (nay thuộc huyện Trực Ninh tỉnh Nam Định). Cũng năm đó, do thấy vị thế đã kém, ông Ngô Xương Xí không xưng quốc chủ mà lui xuống mạn Bình Kiều (nay thuộc tỉnh Thanh Hóa) cố thủ, bỏ hoang kinh kì.
- Đinh bộ lĩnh
Trong 3 năm cuối cùng, sứ quân Đinh thị lần lượt thu phục các thế lực lớn nhất trung thổ, căn bản thống nhất bờ cõi Tĩnh Hải quân. Tới năm 968, ông xưng Đại Thắng Minh hoàng đế, đổi Tĩnh Hải quân thành Đại Cồ-việt quốc, dựng kinh thành Tràng An ở bản quán Hoa Lư, coi như kết thúc gần thế kỉ tương tàn[6].
Thực tế, từ thời điểm này, khu vực Lĩnh Nam không chịu sự kiểm soát trực tiếp của các triều đình Trung Châu nữa, căn bản tiến tới tự chủ hoàn toàn ở thế kỉ XI.
Văn hóa
Do đặc thù xã hội An Nam thế kỉ IX sang giữa thế kỉ X thường động loạn nên sử liệu không nhiều và lắm tồn nghi. Do đó, trong quá trình phát triển văn bản học và khảo cổ học ở hậu kì hiện đại đã phát sinh một số nghi vấn về thời kì này.
- Hư thực nhân vật Khúc Thừa Dụ
Cứ liệu sớm nhất nhắc đến nhân vật Khúc Thừa Dụ (曲承裕) là Tục tư trị thông giám của tác giả Tất Nguyên triều Càn Long (giữa thế kỉ XVIII), sau được Nguyễn triều Quốc Sử quán Khâm định Việt sử thông giám cương mục chép nguyên văn : "Năm Đinh Mão [907], (Đường Thiên Hựu thứ 4, Lương Thái Tổ hiệu Khai Bình thứ 1). Khúc Thừa Dụ mất, con là Hạo giữ Giao Châu, tự xưng tiết độ sứ. Khúc Hạo nhờ vào cơ nghiệp cũ, giữ lấy La thành, cũng xưng tiết độ sứ. [Ông] chia lộ phủ châu xã các xứ ; đặt chính lệnh trưởng và tá lệnh trưởng, bình quân thuế ruộng, tha bỏ lực dịch ; lập sổ khai hộ khẩu, kê rõ họ tên quê quán, giao cho giáp trưởng trông coi. Chính trị cốt chuộng khoan dung giản dị, nhân dân đều được yên vui. Khi đó, nhà Lương dùng tiết độ sứ Quảng Châu là Lưu Ẩn kiêm lĩnh chức Tĩnh Hải quân tiết độ sứ và phong tước Nam Bình vương. Lưu Ẩn giữ thành Phiên Ngung. Khúc Hạo giữ Giao Châu, [cũng] tự xưng tiết độ sứ, hai bên chực thôn tính lẫn nhau. Lời chua : 'Khúc Hạo : Theo sách An Nam Kỉ Yếu, Khúc Hạo người Giao Chỉ. Cuối đời Đường, Khúc Hạo làm tiết độ sứ thay Độc Cô Tổn, đổi các hương ở huyện làm giáp, đặt mỗi giáp một quản giáp và một phó tri giáp để giữ việc đánh thuế. Khúc Hạo giữ chức tiết độ sứ được bốn năm thì mất. Nay xét việc chép trong An Nam Kỉ Yếu có hơi khác với lời sử cũ, xin ghi cả hai để tham khảo".
Ngoài ra, các thư tịch trước đó đều không chép gì nhân vật này, nên chăng là sự sót lầm của học giả đời Thanh trong quá trình tầm khảo tư liệu.
- An Nam chí lược (Đại Nguyên) : "Cuối đời Đường, thổ hào Giao Châu Ái Châu là các họ Khúc Dương Kiểu Ngô nối nhau thoán đoạt, trong thời gian chừng năm sáu chục năm. [...] Khúc Hạo chiếm cứ Giao Chỉ. Lúc ấy, Lưu Ẩn chiếm cứ Phiên Ngung. Ẩn chết, con là Lưu Nghiễm kế lập, xưng quốc hiệu Nam Hán. Khúc Hạo khiến con là Thừa Mĩ qua làm khuyến hảo sứ, đến Quảng Châu dò xét thực hư. Hạo chết, Thừa Mĩ kế ngôi cha. Năm Kỉ Mão, hiệu Trinh Minh nhà Lương nguyên niên [915], [ông] khiến sứ tiến cống, cầu lĩnh tiết việt, nhà Lương nhân trao cho. Lưu Nghiễm cả giận, tháng 9 năm Đại Hữu thứ 3 [930] đời ngụy Hán [Nam Hán], khiến kiêu tướng Lương Khắc Chính đem binh đến đánh, bắt Thừa Mĩ về. Khắc Chính lưu giữ Giao Chỉ, sau bị Dương Đình Nghệ đuổi".
- Đại Việt sử lược (An Nam Trần triều) : "Khúc Hạo vào năm đầu niên hiệu Khai Bình nhà Lương [907] lên thay Độc Cô Tổn làm tiết độ sứ. Khúc Toàn Mĩ là em trai Khúc Hạo vậy. Đời vua Minh Tông [926 – 933] triều Hậu Đường, [Khúc Toàn Mĩ] thay Khúc Hạo làm tiết độ sứ. Sau, Khúc Toàn Mĩ bị tướng Nam Hải là Lương Khắc Chân bắt đưa về Nam Hán rồi cho Nguyễn Tiến [tức Lý Tiến, thời Trần kị chữ Lý nên phải đổi Nguyễn] sang thay. [...] Năm đầu niên hiệu Trường Hưng [930] đời Minh Tông triều Hậu Đường, chúa Nam Hán là Lưu Cung sai tướng là bọn Lương Khắc Chân sang đánh Giao châu ta, bắt được quan tiết độ sứ Khúc Toàn Mĩ, rồi cho tướng Nguyễn Tiến thay.".
- Đại Việt sử ký toàn thư (An Nam Lê triều) : "Đinh Mão [907], (Đường Thiên Hựu năm thứ 4, Lương Thái Tổ Chu Toàn Trung cải danh là Hoảng, lấy hiệu Khai Bình nguyên niên). Nhà Lương cho Quảng Châu tiết độ sứ Lưu Ẩn kiêm chức Tĩnh Hải quân tiết độ sứ, tước Nam Bình vương. Khi ấy, Ẩn chiếm giữ Phiên Ngung, người Giao châu là Khúc Hạo chiếm giữ châu trị, xưng tiết độ sứ, có mưu đồ lẫn nhau. Năm ấy nhà Đường mất. [...] Đinh Sửu [917], (Lương Mạt Đế Hữu Trinh cải danh Chẩn, hiệu Trinh Minh năm thứ 3). Quảng Châu tri lưu hậu nhà Lương là Lưu Nham đặt quốc hiệu Hán [Nam Hán], niên hiệu Càn Hanh thứ nhất. Khúc Hạo sai con là Thừa Mĩ làm hoan hảo sứ sang Quảng Châu thăm dò tình hình [Nam Hán] hư thực thế nào. Hạo chết, Khúc Thừa Mĩ lên thay. [...] Kỉ Mão [919], (Lương Trinh Minh năm thứ 5). Khúc Thừa Mĩ sai sứ sang nhà Lương xin được lĩnh tiết việt, nhà Lương ban cho. Vua [Nam Hán] cả giận. [...] Quý Mùi [923] (Lương Long Đức năm thứ 3, Đường Trang Tông Lý Tồn Húc, hiệu Đồng Quang nguyên niên), nhà Lương mất. Mùa thu tháng Bảy, vua Hán sai kiêu tướng Lý Khắc Chính đem quân đánh Giao châu, bắt được tiết độ sứ [Khúc] Thừa Mĩ về, [Khắc Chính] lấy bộ tướng của mình là Lý Tiến thay. Lý Khắc Chính ở lại giữ Giao châu, bị tướng của Khúc Hạo là Dương Đình Nghệ người Ái châu đánh đuổi. Vua Hán trao Đình Nghệ tước vị, lấy Lý Tiến làm thứ sử Giao Châu, cùng với Lý Khắc Chính giữ thành, bảo tả hữu rằng : Dân Giao Chỉ hay làm loạn, [ta] chỉ ki mi được thôi. [...] Sử thần Ngô Sĩ Liên bàn : Lưu Nghiễm đương lúc triều đình phương Bắc rối loạn, nhờ nghiệp cũ của anh mà dựng nước, đặt niên hiệu, cùng với Khúc Hạo tranh bá, rồi bắt Thừa Mĩ, lấy Giao châu, hùng cứ một phương, cùng sánh được các nước tiếm ngôi ở Bắc triều. Cho nên, Tiền Ngô vương nổi lên, tuy giết được con, phá được quân [Nghiễm], nhưng không giữ được đất, quốc thống họ Lưu kéo dài không dứt, mãi đến khi Tống [Thái] Tổ dấy lên thì đất ấy mới nhập vào nhà Tống".
- Dương Diên Nghệ hay Dương Đình Nghệ
Tự mẫu 筵 (Diên) khá giống 廷 (Đình) cả về lối đọc và ghi trong ngôn ngữ An Nam trung đại.
Tham khảo
Liên kết
- ↑ 《舊唐書·高駢傳》:“五年,移駢為安南都護”。
- ↑ 《資治通鑑》:“(咸通七年十一月)置靜海軍於安南,以高駢為節度使”。
- ↑ 《新唐書·高駢傳》:“進駢檢校刑部尚書,仍鎮安南,以都護府為靜海軍,授駢節度,兼諸道行營招討使”。
- ↑ Người ghép mảnh vỡ lịch sử
- ↑ Trao đổi với Trần Trọng Dương
- ↑ Trần Trọng Dương, Đinh Tiên Hoàng dưới con mắt các sử gia hiện đại, Tạp chí Tia Sáng, Hà Nội, 18-11-2018.
Tài liệu
- Quốc ngữ
- Đại Việt sử ký toàn thư (Lê triều Quốc Sử viện), Khâm định Việt sử thông giám cương mục (Nguyễn triều Quốc Sử quán)
- Trần Trọng Kim, Việt Nam sử lược, Trung Bắc tân văn, Hà Nội, 1920.
- Phạm Văn Sơn, Việt sử toàn thư : Từ thượng cổ đến hiện đại, Tủ Sách Sử Học, Sài Gòn, 1960.
- Đào Duy Anh, Đất nước Việt Nam qua các đời : Nghiên cứu địa lý học lịch sử Việt Nam, Nhà xuất bản Văn Hóa Thông Tin, Hà Nội, 1964.
- Quỳnh Cư & Đỗ Đức Hùng, Các triều đại Việt Nam, Nhà xuất bản Văn Hóa Thông Tin, Hà Nội, 1993.
- Ngoại ngữ
- Li Tana, Towards an environmental history of the eastern Red River Delta, Vietnam, c.900-1400, Journal of Southeast Asian Studies, University of Cambridge, 2014.