Ung thư vòm họng | |
---|---|
Tên khác | Ung thư biểu mô vòm họng, ung thư vòm hầu |
Chuyên khoa | Ung thư học |
Ung thư vòm họng là ung thư phát sinh từ vòm họng, phần trên của họng nằm sau mũi và khoang mũi.[1] Ung thư ở vòm họng hầu hết là ung thư biểu mô khởi nguồn từ các tế bào biểu mô lót vòm họng và ở đây chỉ đề cập đến loại này.[1] Ung thư biểu mô vòm họng (NPC) độc đáo về mặt dịch tễ và sự liên hệ mật thiết với virus Epstein–Barr (EBV).[2] Tâm điểm hình thành NPC là ngách họng hay hố Rosenmuller, nơi mà từ đó nó có nhiều đường để lan tỏa.[3] Vị trí này góp phần lý giải việc NPC rất hay biểu hiện là sự di căn hạch ở cổ thay vì thương tổn mũi nguyên phát.[3] Cục bướu ở cổ thường là triệu chứng đầu tiên của NPC.[4] NPC có thể theo đường máu di căn đến những cơ quan xa như xương, phổi, và gan.[4]
Trên thế giới, ung thư vòm họng là tương đối hiếm gặp.[5] Tuy nhiên, tỷ lệ mắc cao hơn đáng kể đã được quan sát từ lâu với nhóm người Quảng Đông ở miền nam Trung Quốc; cùng tỷ lệ vừa với các dân tộc bản địa ở Đông Nam Á, vùng Bắc Cực, Bắc Phi, và Trung Đông.[6] Số lượng nam mắc bệnh nhiều gấp hai đến ba lần nữ.[6] Một lý do quan trọng khiến người Quảng Đông hay bị ung thư vòm họng là thói quen ăn cá ướp muối kiểu truyền thống từ bé, món ăn chứa nitrosamine dễ bay hơi là hóa chất gây ung thư đã biết.[7] Dựa trên các bằng chứng, Cơ quan Nghiên cứu Ung thư Quốc tế đã liệt cá ướp muối kiểu Trung Quốc vào nhóm 1 là nguyên nhân gây ung thư.[8] Ngoài cá muối thì những gia vị hay thực phẩm bảo quản khác ở nhiều vùng trên thế giới cũng làm gia tăng nguy cơ.[9]
Tham khảo
- ↑ a b The American Cancer Society medical and editorial content team (ngày 1 tháng 8 năm 2022), What Is Nasopharyngeal Cancer?, American Cancer Society, truy cập ngày 2 tháng 7 năm 2022
- ↑ Busson 2013, tr. 1.
- ↑ a b Lee, Lung & Ng 2019, tr. 1.
- ↑ a b Busson 2013, tr. 2.
- ↑ Chen et al. 2019, tr. 64.
- ↑ a b Chang et al. 2021, tr. 1035.
- ↑ Lee, Lung & Ng 2019, tr. 4.
- ↑ Chinese-style salted fish (PDF), International Agency for Research on Cancer, 2012, truy cập ngày 4 tháng 7 năm 2023
- ↑ Busson 2013, tr. 29.
Tạp chí
- Chen, Yu-Pei; Chan, Anthony T C; Le, Quynh-Thu; Blanchard, Pierre; Sun, Ying; Ma, Jun (tháng 7 năm 2019), "Nasopharyngeal carcinoma", The Lancet, Elsevier BV, 394 (10192): 64–80, doi:10.1016/S0140-6736(19)30956-0, PMID 31178151, S2CID 182948110
- Wong, Kenneth C. W.; Hui, Edwin P.; Lo, Kwok-Wai; Lam, Wai Kei Jacky; Johnson, David; Li, Lili; Tao, Qian; Chan, Kwan Chee Allen; To, Ka-Fai; King, Ann D.; Ma, Brigette B. Y.; Chan, Anthony T. C. (ngày 30 tháng 6 năm 2021), "Nasopharyngeal carcinoma: an evolving paradigm", Nature Reviews Clinical Oncology, Springer Science and Business Media LLC, 18 (11): 679–695, doi:10.1038/s41571-021-00524-x, PMID 34194007, S2CID 235677646
- Chang, Ellen T.; Ye, Weimin; Zeng, Yi-Xin; Adami, Hans-Olov (ngày 13 tháng 4 năm 2021), "The Evolving Epidemiology of Nasopharyngeal Carcinoma", Cancer Epidemiology, Biomarkers & Prevention, 30 (6): 1035–1047, doi:10.1158/1055-9965.EPI-20-1702, PMID 33849968, S2CID 233233393
Sách
- Lu, J. J.; Cooper, J. S.; Lee, A. W. M, bt. (2010), Nasopharyngeal Cancer: Multidisciplinary Management, Springer Berlin Heidelberg, ISBN 978-3-540-92810-2
- Busson, Pierre, bt. (2013), Nasopharyngeal Carcinoma: Keys for Translational Medicine and Biology, Springer New York, ISBN 978-1-4614-5947-7
- Lee, Anne W.M.; Lung, Maria Li; Ng, Wai Tong, bt. (2019), Nasopharyngeal Carcinoma: From Etiology to Clinical Practice, Academic Press, ISBN 978-0-12-814936-2