Dòng 3: | Dòng 3: | ||
'''Ngân Hà''' là [[thiên hà]] chứa [[Hệ Mặt trời]] của chúng ta.{{sfn|Greenstein|2013|p=453}} Nhìn từ Trái đất vào buổi đêm, Ngân Hà hiện lên như một dải ánh sáng mờ vắt qua bầu trời.{{sfnm|1a1=Bennett et al.|1y=2016|1p=581|2a1=Greenstein|2y=2013|2p=454|3a1=Nicolson|3y=1999|3p=197|4a1=Fraknoi et al.|4y=2016|4p=895}} Con người đã trông thấy dải ánh sáng này từ thưở bình minh của lịch sử,{{sfnm|1a1=Nicolson|1y=1999|1p=197|2a1=Waller|2y=2013|2p=10}} thế nhưng phải đến đầu thế kỷ 17 [[Galileo Galilei]] nhờ [[kính viễn vọng]] mới khám phá ra ánh sáng của nó đến từ vô số vì sao đơn lẻ.{{sfnm|1a1=Bennett et al.|1y=2016|1p=581|2a1=Nicolson|2y=1999|2p=197|3a1=Fraknoi et al.|3y=2016|4p=895}} Vào năm 1785 William và Caroline Herschel vận dụng phương pháp đếm số sao trên bầu trời đã đi đến kết luận Ngân Hà có dạng đĩa phẳng{{efn|Hoặc dạng bánh xe{{sfn|Fraknoi et al.|2016|p=896}} hay đá mài.{{sfn|Greenstein|2013|p=458}}}} và [[Mặt trời]] nằm gần tâm đĩa.{{sfnm|1a1=Fraknoi et al.|1y=2016|1p=896|2a1=Nicolson|2y=1999|2p=198}} Giờ thì chúng ta biết rằng Ngân Hà đúng là có dạng đĩa,{{efn|Không quá phẳng, ở giữa hơi phình.{{sfnm|1a1=Nicolson|1y=1999|1p=198|2a1=Bennett et al.|2y=2016|2p=581}}}} nhưng Mặt trời không nằm gần tâm của nó.{{sfnm|1a1=Nicolson|1y=1999|1p=198|2a1=Bennett et al.|2y=2016|2p=581}} | '''Ngân Hà''' là [[thiên hà]] chứa [[Hệ Mặt trời]] của chúng ta.{{sfn|Greenstein|2013|p=453}} Nhìn từ Trái đất vào buổi đêm, Ngân Hà hiện lên như một dải ánh sáng mờ vắt qua bầu trời.{{sfnm|1a1=Bennett et al.|1y=2016|1p=581|2a1=Greenstein|2y=2013|2p=454|3a1=Nicolson|3y=1999|3p=197|4a1=Fraknoi et al.|4y=2016|4p=895}} Con người đã trông thấy dải ánh sáng này từ thưở bình minh của lịch sử,{{sfnm|1a1=Nicolson|1y=1999|1p=197|2a1=Waller|2y=2013|2p=10}} thế nhưng phải đến đầu thế kỷ 17 [[Galileo Galilei]] nhờ [[kính viễn vọng]] mới khám phá ra ánh sáng của nó đến từ vô số vì sao đơn lẻ.{{sfnm|1a1=Bennett et al.|1y=2016|1p=581|2a1=Nicolson|2y=1999|2p=197|3a1=Fraknoi et al.|3y=2016|4p=895}} Vào năm 1785 William và Caroline Herschel vận dụng phương pháp đếm số sao trên bầu trời đã đi đến kết luận Ngân Hà có dạng đĩa phẳng{{efn|Hoặc dạng bánh xe{{sfn|Fraknoi et al.|2016|p=896}} hay đá mài.{{sfn|Greenstein|2013|p=458}}}} và [[Mặt trời]] nằm gần tâm đĩa.{{sfnm|1a1=Fraknoi et al.|1y=2016|1p=896|2a1=Nicolson|2y=1999|2p=198}} Giờ thì chúng ta biết rằng Ngân Hà đúng là có dạng đĩa,{{efn|Không quá phẳng, ở giữa hơi phình.{{sfnm|1a1=Nicolson|1y=1999|1p=198|2a1=Bennett et al.|2y=2016|2p=581}}}} nhưng Mặt trời không nằm gần tâm của nó.{{sfnm|1a1=Nicolson|1y=1999|1p=198|2a1=Bennett et al.|2y=2016|2p=581}} | ||
− | Ngân Hà là [[thiên hà xoắn ốc có thanh]]{{sfnm|Nicolson|1999|p=206}} chứa một phần đĩa tròn, quay, sáng nhất có đường kính khoảng 100.000 năm ánh sáng{{sfnm|1a1=Bennett et al.|1y=2016|1p=581|2a1=Fraknoi et al.|2y=2016|2p=899|3a1=Waller|3y=2013|3p=82}} và độ dày 2.000 năm ánh sáng.{{sfnm|1a1=Nicolson|1y=1999|1p=198|2a1=Fraknoi et al.|2y=2016|2p=899|3a1=Waller|3y=2013|3p=244}} [[Sao]], khí và bụi không phân bổ đều khắp đĩa mà tập trung ở thanh giữa và các nhánh xoắn ốc.{{sfn|Fraknoi et al.|2016|p=900}} Ở trung tâm, tập hợp các ngôi sao tạo thành một chỗ phình có dạng [[ellipsoid]], rộng 20.000 năm ánh sáng{{sfnm|1a1=Nicolson|1y=1999|1p=198|2a1=Fraknoi et al.|2y=2016|2p=901|3a1=Waller|3y=2013|3p=222}} và dày 6.000{{sfn|Nicolson|1999|p=198}} đến 10.000 năm ánh sáng.{{sfn|Waller|2013|p=222}} Trái ngược với đĩa là nơi có nhiều sao tương đối trẻ, đa số sao ở chỗ phình là [[sao khổng lồ đỏ]] già.{{sfnm|1a1=Nicolson|1y=1999|1p=200|2a1=Waller|2y=2013|2p=224}} Bao quanh đĩa và chỗ phình là [[quầng thiên hà|quầng]] dạng cầu chứa các [[cụm sao cầu]] và sao già rải rác.{{sfnm|1a1=Nicolson|1y=1999|1p=200|2a1=Fraknoi et al.|2y=2016|2p=902}} Tổng khối lượng của Ngân Hà là khoảng 1,08{{e|12}} lần [[khối lượng Mặt trời]], trong đó [[vật chất tối]] chiếm đến khoảng 90%.{{sfn|Cautun et al.|2020|p=1, 19}} Số lượng sao trong Ngân Hà là hơn 100 tỷ,{{sfnm|1a1=Nicolson|1y=1999|1p=198|2a1=Waller|2y=2013|2p=82|3a1=Bennett et al.|3y=2016|3p=581}} và Ngân Hà cũng chỉ là một trong số 100 tỷ thiên hà ở vũ trụ quan sát thấy.{{efn|{{ | + | Ngân Hà là [[thiên hà xoắn ốc có thanh]]{{sfnm|Nicolson|1999|p=206}} chứa một phần đĩa tròn, quay, sáng nhất có đường kính khoảng 100.000 năm ánh sáng{{sfnm|1a1=Bennett et al.|1y=2016|1p=581|2a1=Fraknoi et al.|2y=2016|2p=899|3a1=Waller|3y=2013|3p=82}} và độ dày 2.000 năm ánh sáng.{{sfnm|1a1=Nicolson|1y=1999|1p=198|2a1=Fraknoi et al.|2y=2016|2p=899|3a1=Waller|3y=2013|3p=244}} [[Sao]], khí và bụi không phân bổ đều khắp đĩa mà tập trung ở thanh giữa và các nhánh xoắn ốc.{{sfn|Fraknoi et al.|2016|p=900}} Ở trung tâm, tập hợp các ngôi sao tạo thành một chỗ phình có dạng [[ellipsoid]], rộng 20.000 năm ánh sáng{{sfnm|1a1=Nicolson|1y=1999|1p=198|2a1=Fraknoi et al.|2y=2016|2p=901|3a1=Waller|3y=2013|3p=222}} và dày 6.000{{sfn|Nicolson|1999|p=198}} đến 10.000 năm ánh sáng.{{sfn|Waller|2013|p=222}} Trái ngược với đĩa là nơi có nhiều sao tương đối trẻ, đa số sao ở chỗ phình là [[sao khổng lồ đỏ]] già.{{sfnm|1a1=Nicolson|1y=1999|1p=200|2a1=Waller|2y=2013|2p=224}} Bao quanh đĩa và chỗ phình là [[quầng thiên hà|quầng]] dạng cầu chứa các [[cụm sao cầu]] và sao già rải rác.{{sfnm|1a1=Nicolson|1y=1999|1p=200|2a1=Fraknoi et al.|2y=2016|2p=902}} Tổng khối lượng của Ngân Hà là khoảng 1,08{{e|12}} lần [[khối lượng Mặt trời]], trong đó [[vật chất tối]] chiếm đến khoảng 90%.{{sfn|Cautun et al.|2020|p=1, 19}} Số lượng sao trong Ngân Hà là hơn 100 tỷ,{{sfnm|1a1=Nicolson|1y=1999|1p=198|2a1=Waller|2y=2013|2p=82|3a1=Bennett et al.|3y=2016|3p=581}} và Ngân Hà cũng chỉ là một trong số 100 tỷ thiên hà ở vũ trụ quan sát thấy.{{efn|Một nghiên cứu năm 2016{{sfn|Conselice et al.|2016|p=1}} ước tính vũ trụ quan sát thấy có hơn 2.000 tỷ thiên hà, gấp hơn 10 lần trước kia.{{sfn|Castelvecchi|2016|p=1, 2}}}}{{sfn|Bennett et al.|2016|p=581}} |
{{clear}} | {{clear}} | ||
Dòng 9: | Dòng 9: | ||
== Chú thích == | == Chú thích == | ||
{{notelist}} | {{notelist}} | ||
+ | |||
== Tham khảo == | == Tham khảo == | ||
{{reflist}} | {{reflist}} | ||
+ | |||
=== Tạp chí === | === Tạp chí === | ||
*{{cite journal | last1 = Cautun | first1 = Marius | last2 = Benítez-Llambay | first2 = Alejandro | last3 = Deason | first3 = Alis J | last4 = Frenk | first4 = Carlos S | last5 = Fattahi | first5 = Azadeh | last6 = Gómez | first6 = Facundo A | last7 = Grand | first7 = Robert J J | last8 = Oman | first8 = Kyle A | last9 = Navarro | first9 = Julio F | last10 = Simpson | first10 = Christine M | title = The milky way total mass profile as inferred from Gaia DR2 | journal = Monthly Notices of the Royal Astronomical Society | date = 17 April 2020 | volume = 494 | issue = 3 | pages = 4291–4313 | doi = 10.1093/mnras/staa1017 | arxiv = 1911.04557v2 | bibcode = 2020MNRAS.494.4291C | s2cid = 207863711 | doi-access = free | ref = {{harvid|Cautun et al.|2020}}}} | *{{cite journal | last1 = Cautun | first1 = Marius | last2 = Benítez-Llambay | first2 = Alejandro | last3 = Deason | first3 = Alis J | last4 = Frenk | first4 = Carlos S | last5 = Fattahi | first5 = Azadeh | last6 = Gómez | first6 = Facundo A | last7 = Grand | first7 = Robert J J | last8 = Oman | first8 = Kyle A | last9 = Navarro | first9 = Julio F | last10 = Simpson | first10 = Christine M | title = The milky way total mass profile as inferred from Gaia DR2 | journal = Monthly Notices of the Royal Astronomical Society | date = 17 April 2020 | volume = 494 | issue = 3 | pages = 4291–4313 | doi = 10.1093/mnras/staa1017 | arxiv = 1911.04557v2 | bibcode = 2020MNRAS.494.4291C | s2cid = 207863711 | doi-access = free | ref = {{harvid|Cautun et al.|2020}}}} | ||
− | *{{cite journal | last1 = Castelvecchi | | + | *{{cite journal | last1 = Conselice | first1 = Christopher J. | last2 = Wilkinson | first2 = Aaron | last3 = Duncan | first3 = Kenneth | last4 = Mortlock | first4 = Alice | title = The Evolution of Galaxy Number Density at z < 8 and its Implications | journal = The Astrophysical Journal | date = 13 October 2016 | volume = 830 | issue = 2 | page = 83 | doi = 10.3847/0004-637X/830/2/83 | arxiv = 1607.03909v2 | s2cid = 17424588 | doi-access = free | ref = {{harvid|Conselice et al.|2016}}}} |
+ | *{{cite journal | last = Castelvecchi | first = Davide | title = Universe has ten times more galaxies than researchers thought | journal = Nature | date = 14 October 2016 | doi = 10.1038/nature.2016.20809 | s2cid = 125550751 | doi-access = free}} | ||
=== Sách === | === Sách === |
Phiên bản lúc 00:53, ngày 1 tháng 5 năm 2022
Ngân Hà là thiên hà chứa Hệ Mặt trời của chúng ta.[1] Nhìn từ Trái đất vào buổi đêm, Ngân Hà hiện lên như một dải ánh sáng mờ vắt qua bầu trời.[2] Con người đã trông thấy dải ánh sáng này từ thưở bình minh của lịch sử,[3] thế nhưng phải đến đầu thế kỷ 17 Galileo Galilei nhờ kính viễn vọng mới khám phá ra ánh sáng của nó đến từ vô số vì sao đơn lẻ.[4] Vào năm 1785 William và Caroline Herschel vận dụng phương pháp đếm số sao trên bầu trời đã đi đến kết luận Ngân Hà có dạng đĩa phẳng[↓ 1] và Mặt trời nằm gần tâm đĩa.[7] Giờ thì chúng ta biết rằng Ngân Hà đúng là có dạng đĩa,[↓ 2] nhưng Mặt trời không nằm gần tâm của nó.[8]
Ngân Hà là thiên hà xoắn ốc có thanh[9] chứa một phần đĩa tròn, quay, sáng nhất có đường kính khoảng 100.000 năm ánh sáng[10] và độ dày 2.000 năm ánh sáng.[11] Sao, khí và bụi không phân bổ đều khắp đĩa mà tập trung ở thanh giữa và các nhánh xoắn ốc.[12] Ở trung tâm, tập hợp các ngôi sao tạo thành một chỗ phình có dạng ellipsoid, rộng 20.000 năm ánh sáng[13] và dày 6.000[14] đến 10.000 năm ánh sáng.[15] Trái ngược với đĩa là nơi có nhiều sao tương đối trẻ, đa số sao ở chỗ phình là sao khổng lồ đỏ già.[16] Bao quanh đĩa và chỗ phình là quầng dạng cầu chứa các cụm sao cầu và sao già rải rác.[17] Tổng khối lượng của Ngân Hà là khoảng 1,08×1012 lần khối lượng Mặt trời, trong đó vật chất tối chiếm đến khoảng 90%.[18] Số lượng sao trong Ngân Hà là hơn 100 tỷ,[19] và Ngân Hà cũng chỉ là một trong số 100 tỷ thiên hà ở vũ trụ quan sát thấy.[↓ 3][22]
Chú thích
Tham khảo
- ↑ Greenstein 2013, tr. 453.
- ↑ Bennett et al. 2016, tr. 581; Greenstein 2013, tr. 454; Nicolson 1999, tr. 197; Fraknoi et al. 2016, tr. 895.
- ↑ Nicolson 1999, tr. 197; Waller 2013, tr. 10.
- ↑ Bennett et al. 2016, tr. 581; Nicolson 1999, tr. 197; Fraknoi et al. 2016.
- ↑ Fraknoi et al. 2016, tr. 896.
- ↑ Greenstein 2013, tr. 458.
- ↑ Fraknoi et al. 2016, tr. 896; Nicolson 1999, tr. 198.
- ↑ a b Nicolson 1999, tr. 198; Bennett et al. 2016, tr. 581.
- ↑ Nicolson 1999.
- ↑ Bennett et al. 2016, tr. 581; Fraknoi et al. 2016, tr. 899; Waller 2013, tr. 82.
- ↑ Nicolson 1999, tr. 198; Fraknoi et al. 2016, tr. 899; Waller 2013, tr. 244.
- ↑ Fraknoi et al. 2016, tr. 900.
- ↑ Nicolson 1999, tr. 198; Fraknoi et al. 2016, tr. 901; Waller 2013, tr. 222.
- ↑ Nicolson 1999, tr. 198.
- ↑ Waller 2013, tr. 222.
- ↑ Nicolson 1999, tr. 200; Waller 2013, tr. 224.
- ↑ Nicolson 1999, tr. 200; Fraknoi et al. 2016, tr. 902.
- ↑ Cautun et al. 2020, tr. 1, 19.
- ↑ Nicolson 1999, tr. 198; Waller 2013, tr. 82; Bennett et al. 2016, tr. 581.
- ↑ Conselice et al. 2016, tr. 1.
- ↑ Castelvecchi 2016, tr. 1, 2.
- ↑ Bennett et al. 2016, tr. 581.
Tạp chí
- Cautun, Marius; Benítez-Llambay, Alejandro; Deason, Alis J; Frenk, Carlos S; Fattahi, Azadeh; Gómez, Facundo A; Grand, Robert J J; Oman, Kyle A; Navarro, Julio F; Simpson, Christine M (ngày 17 tháng 4 năm 2020), "The milky way total mass profile as inferred from Gaia DR2", Monthly Notices of the Royal Astronomical Society, 494 (3): 4291–4313, arXiv:1911.04557v2, Bibcode:2020MNRAS.494.4291C, doi:10.1093/mnras/staa1017, S2CID 207863711
- Conselice, Christopher J.; Wilkinson, Aaron; Duncan, Kenneth; Mortlock, Alice (ngày 13 tháng 10 năm 2016), "The Evolution of Galaxy Number Density at z < 8 and its Implications", The Astrophysical Journal, 830 (2): 83, arXiv:1607.03909v2, doi:10.3847/0004-637X/830/2/83, S2CID 17424588
- Castelvecchi, Davide (ngày 14 tháng 10 năm 2016), "Universe has ten times more galaxies than researchers thought", Nature, doi:10.1038/nature.2016.20809, S2CID 125550751
Sách
- Greenstein, George (2013), Understanding the Universe, Cambridge University Press, doi:10.1017/CBO9781139022477, ISBN 978-1-139-02247-7
- Fraknoi, Andrew; Morrison, David; Wolff, Sidney C. (2016), Astronomy, OpenStax, ISBN 978-1-947172-24-1
- Bennett, Jeffrey O.; Donahue, Megan O.; Schneider, Nicholas; Voit, Mark (2016), The Cosmic Perspective (lxb. 8), Pearson, ISBN 978-0-134-07382-8
- Nicolson, Iain (1999), Unfolding our Universe, Cambridge University Press, doi:10.1017/CBO9780511584626, ISBN 978-0-511-58462-6
- Waller, William H. (2013), The Milky Way: An Insider's Guide, Princeton University Press, ISBN 978-1-4008-4737-2