n (Taitamtinh đã đổi Nam Hà thành Nam Hà/đang phát triển: Quá 30 ngày chưa bình duyệt nên chuyển sang không gian bài đang phát triển) |
|||
(Không hiển thị 5 phiên bản của một người dùng khác ở giữa) | |||
Dòng 1: | Dòng 1: | ||
{{mới}} | {{mới}} | ||
− | '''Đàng Trong''' ([[Nôm]] : 唐冲<ref>Albert Schroeder 在巴黎出版的《大南歷代紀年 Đại Nam lịch đại kí niên Chronologie des souverains de l'Annam》第24頁:“Nguyễn 阮:Dits les seigneurs du Sud ou Chúa đàng trong 主唐冲”.</ref>) là tục danh một cựu lĩnh thổ [[An Nam]] trung đại<ref>陈荆和:《朱舜水〈安南供役纪事〉笺注》,香港中文大学中国文化研究所学报第一卷抽印本,1968年。</ref>. | + | '''Nam Hà''' ([[Hán]] : 南河) hoặc '''Đàng Trong''' ([[Nôm]] : 唐冲<ref>Albert Schroeder 在巴黎出版的《大南歷代紀年 Đại Nam lịch đại kí niên Chronologie des souverains de l'Annam》第24頁:“Nguyễn 阮:Dits les seigneurs du Sud ou Chúa đàng trong 主唐冲”.</ref>) là tục danh một cựu lĩnh thổ [[An Nam]] trung đại<ref>陈荆和:《朱舜水〈安南供役纪事〉笺注》,香港中文大学中国文化研究所学报第一卷抽印本,1968年。</ref>. |
==Lịch sử== | ==Lịch sử== | ||
Địa danh '''Đàng Trong''' xuất hiện sớm nhất trong ''[[Dictionarium Annamiticum Lusitanum et Latinum]]'' (Tự điển An Nam - Bồ - Latin) đề cập dải duyên hải từ [[sông Gianh]] trở xuống Nam, thuộc quyền coi quản của các [[chúa Nguyễn]]<ref>李塔娜著,杜耀文、李亚舒译:《越南阮氏王朝社会经济史》,文津出版社,2000年,英文版序言第5頁。</ref>. Thực tế [[chúa Nguyễn]] chỉ dám xưng ''Trấn thủ tướng quân'', vẫn tự coi thần tử [[triều Lê trung hưng]] và là phần kéo dài của [[An Nam]] quốc. Đương thời, ngoại nhân thường gọi '''Nam Hà xứ''' hoặc '''Quảng Nam quốc''', trong khi thổ dân chỉ xưng '''Giao Chỉ nhân'''. | Địa danh '''Đàng Trong''' xuất hiện sớm nhất trong ''[[Dictionarium Annamiticum Lusitanum et Latinum]]'' (Tự điển An Nam - Bồ - Latin) đề cập dải duyên hải từ [[sông Gianh]] trở xuống Nam, thuộc quyền coi quản của các [[chúa Nguyễn]]<ref>李塔娜著,杜耀文、李亚舒译:《越南阮氏王朝社会经济史》,文津出版社,2000年,英文版序言第5頁。</ref>. Thực tế [[chúa Nguyễn]] chỉ dám xưng ''Trấn thủ tướng quân'', vẫn tự coi thần tử [[triều Lê trung hưng]] và là phần kéo dài của [[An Nam]] quốc. Đương thời, ngoại nhân thường gọi '''Nam Hà xứ''' hoặc '''Quảng Nam quốc''', trong khi thổ dân chỉ xưng '''Giao Chỉ nhân'''. | ||
Dòng 6: | Dòng 6: | ||
Kể từ đầu thế kỉ XVII, giữa hai bờ [[sông Gianh]] chỉ có giao thương, không ràng buộc về tuế cống nữa. Sang thế kỉ XVIII, Võ vương [[Nguyễn Phước Khoát]] bắt đầu cải biến phong hóa, dần khiến những đất cũ và đất mới bành trướng tạo nên xứ tự chủ ngang hàng với [[chúa Trịnh]] ở Bắc [[sông Gianh]]. Trong dân gian đổi gọi Đàng Trong là '''Tây quốc''' để đối lập '''Nam quốc''' là Đàng Ngoài. | Kể từ đầu thế kỉ XVII, giữa hai bờ [[sông Gianh]] chỉ có giao thương, không ràng buộc về tuế cống nữa. Sang thế kỉ XVIII, Võ vương [[Nguyễn Phước Khoát]] bắt đầu cải biến phong hóa, dần khiến những đất cũ và đất mới bành trướng tạo nên xứ tự chủ ngang hàng với [[chúa Trịnh]] ở Bắc [[sông Gianh]]. Trong dân gian đổi gọi Đàng Trong là '''Tây quốc''' để đối lập '''Nam quốc''' là Đàng Ngoài. | ||
− | Đàng Trong căn bản còn giữ tình trạng ấy tới [[triều Tây Sơn]], sang đến [[triều Nguyễn]] thì hoàn toàn hợp nhất với [[Đàng Ngoài]]. | + | Đàng Trong căn bản còn giữ tình trạng ấy tới [[triều Tây Sơn]], sang đến [[triều Nguyễn]] thì hoàn toàn hợp nhất với [[Đàng Ngoài]]. Từ triều [[Nguyễn Thánh Tổ]] tới [[Nguyễn Dực Tôn|Dực Tôn]] dần chia đất Nam Hà thành [[Trung Bộ|Trực Kì]], [[Nam Trung Bộ|Tả Kì]], [[Nam Bộ|Nam Kì]] và [[Tây Nguyên|Nam Bàn]]. |
+ | [[Hình:Hoi An the ky 17 (2).jpg|nhỏ|giữa|999px|Họa phẩm ''Chu ấn thuyền Giao Chỉ độ hàng đồ quyển'' (朱印船交趾渡航図巻 / しゅいんせんこうちとこうずかん) kích thước 32,8 cm x 1.100,7 cm hiện trữ tại Bảo tàng Quốc lập Cửu Châu (九州国立博物館), thành phố Dazaifu, tỉnh Fukuoka ([[Nhật Bản]]). Được họa cuối thế kỉ XVII, mô tả chuyến hải hành của một chu ấn thuyền từ cảng Nagasaki tới thương cảng Hội An. Thương gia Araki Sōtarō dâng lễ vật lên thế tử kiêm tổng trấn Quảng Nam [[Nguyễn Phúc Nguyên]] xin thông thương, được ngài gả công nữ Ngọc Hoa cho.]] | ||
==Tham khảo== | ==Tham khảo== | ||
− | * [[ | + | * [[Bắc Hà]] |
==Liên kết== | ==Liên kết== | ||
− | {{ | + | {{cước chú|4}} |
* Viện Sử học (2007), ''Lịch sử Việt Nam, tập 4'', Nhà xuất bản Khoa học xã hội | * Viện Sử học (2007), ''Lịch sử Việt Nam, tập 4'', Nhà xuất bản Khoa học xã hội | ||
* Nguyễn Phan Quang (2006), ''Một số công trình sử học Việt Nam'', Nhà xuất bản Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh | * Nguyễn Phan Quang (2006), ''Một số công trình sử học Việt Nam'', Nhà xuất bản Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh | ||
Dòng 16: | Dòng 17: | ||
* Li Tana, ''Xứ Đàng Trong : Lịch sử kinh tế - xã hội Việt Nam thế kỷ 17 và 18''. Bản dịch tiếng Việt của Nguyễn Nghị. (Nhà xuất bản Trẻ, 2013) | * Li Tana, ''Xứ Đàng Trong : Lịch sử kinh tế - xã hội Việt Nam thế kỷ 17 và 18''. Bản dịch tiếng Việt của Nguyễn Nghị. (Nhà xuất bản Trẻ, 2013) | ||
* John Barrow (1764–1848), ''A voyage to Cochinchina in the years 1792 and 1793'' | * John Barrow (1764–1848), ''A voyage to Cochinchina in the years 1792 and 1793'' | ||
− | [[Thể loại:Triều Lê | + | [[Thể loại:Triều Hậu Lê]] |
+ | [[Thể loại:Triều Tây Sơn]] |
Bản hiện tại lúc 09:50, ngày 15 tháng 11 năm 2020
Nam Hà (Hán : 南河) hoặc Đàng Trong (Nôm : 唐冲[1]) là tục danh một cựu lĩnh thổ An Nam trung đại[2].
Lịch sử[sửa]
Địa danh Đàng Trong xuất hiện sớm nhất trong Dictionarium Annamiticum Lusitanum et Latinum (Tự điển An Nam - Bồ - Latin) đề cập dải duyên hải từ sông Gianh trở xuống Nam, thuộc quyền coi quản của các chúa Nguyễn[3]. Thực tế chúa Nguyễn chỉ dám xưng Trấn thủ tướng quân, vẫn tự coi thần tử triều Lê trung hưng và là phần kéo dài của An Nam quốc. Đương thời, ngoại nhân thường gọi Nam Hà xứ hoặc Quảng Nam quốc, trong khi thổ dân chỉ xưng Giao Chỉ nhân.
Kể từ đầu thế kỉ XVII, giữa hai bờ sông Gianh chỉ có giao thương, không ràng buộc về tuế cống nữa. Sang thế kỉ XVIII, Võ vương Nguyễn Phước Khoát bắt đầu cải biến phong hóa, dần khiến những đất cũ và đất mới bành trướng tạo nên xứ tự chủ ngang hàng với chúa Trịnh ở Bắc sông Gianh. Trong dân gian đổi gọi Đàng Trong là Tây quốc để đối lập Nam quốc là Đàng Ngoài.
Đàng Trong căn bản còn giữ tình trạng ấy tới triều Tây Sơn, sang đến triều Nguyễn thì hoàn toàn hợp nhất với Đàng Ngoài. Từ triều Nguyễn Thánh Tổ tới Dực Tôn dần chia đất Nam Hà thành Trực Kì, Tả Kì, Nam Kì và Nam Bàn.
Tham khảo[sửa]
Liên kết[sửa]
- Viện Sử học (2007), Lịch sử Việt Nam, tập 4, Nhà xuất bản Khoa học xã hội
- Nguyễn Phan Quang (2006), Một số công trình sử học Việt Nam, Nhà xuất bản Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh
- Phan Khoang, Việt sử xứ Đàng Trong 1558-1777. (Nhà xuất bản Khai Trí, Sài Gòn, 1967)
- Li Tana, Xứ Đàng Trong : Lịch sử kinh tế - xã hội Việt Nam thế kỷ 17 và 18. Bản dịch tiếng Việt của Nguyễn Nghị. (Nhà xuất bản Trẻ, 2013)
- John Barrow (1764–1848), A voyage to Cochinchina in the years 1792 and 1793