Mục từ này cần được bình duyệt
Khác biệt giữa các bản “Virus dại”
 
(Không hiển thị 9 phiên bản của cùng người dùng ở giữa)
Dòng 14: Dòng 14:
 
Virus dại là một virus RNA sợi đơn âm thuộc chi ''[[Lyssavirus]]'', họ ''[[Rhabdoviridae]]''.<ref name="Singh"/><ref name="Fisher">{{cite journal | last1 = Fisher | first1 = Christine R. | last2 = Streicker | first2 = Daniel G. | last3 = Schnell | first3 = Matthias J. | title = The spread and evolution of rabies virus: conquering new frontiers | journal = Nature Reviews Microbiology | date = 26 February 2018 | volume = 16 | issue = 4 | pages = 241–255 | doi = 10.1038/nrmicro.2018.11 | pmid = 29479072 | pmc = 6899062 | s2cid = 3686016}}</ref> Hạt virus hoàn chỉnh (virion) có hình viên đạn với chiều dài 250 nm, đường kính 70 nm.<ref name="Osakada">{{cite journal | last1 = Osakada | first1 = Fumitaka | last2 = Callaway | first2 = Edward M | title = Design and generation of recombinant rabies virus vectors | journal = Nature Protocols | date = 25 July 2013 | volume = 8 | issue = 8 | pages = 1583–1601 | doi = 10.1038/nprot.2013.094 | pmid = 23887178 | pmc = 4028848 | s2cid = 5457487}}</ref> Bộ gen RNA khá nhỏ chỉ khoảng 12 kilobase mã hóa năm protein: nucleoprotein (N), phosphoprotein (P), matrix protein (M), glycoprotein (G), và polymerase (L).<ref name="Dietzschold"/><ref name="Fisher"/> Giống như mọi virus RNA sợi âm, bộ gen RNA của virus dại được bọc chặt bởi nucleprotein (N), tạo thành ribonucleoprotein (RNP) xoắn ốc.<ref name="Osakada"/><ref name="Schnell9">{{cite journal | last1 = Schnell | first1 = Matthias J. | last2 = McGettigan | first2 = James P. | last3 = Wirblich | first3 = Christoph | last4 = Papaneri | first4 = Amy | title = The cell biology of rabies virus: using stealth to reach the brain | journal = Nature Reviews Microbiology | date = 30 November 2009 | volume = 8 | issue = 1 | pages = 51–61 | doi = 10.1038/nrmicro2260 | pmid = 19946287 | s2cid = 6361798}}</ref> Chỉ RNP mới có thể làm khuôn cho phiên mã và sao chép.<ref name="Osakada"/><ref name="Schnell9"/> Lõi RNP bao gồm các protein N, P, và L được bao quanh bởi protein M có chức năng như cầu nối giữa lõi và màng, nơi protein G gắn vào.<ref name="Schnell9"/>{{sfn|Fooks|Jackson|2020|p=45}}
 
Virus dại là một virus RNA sợi đơn âm thuộc chi ''[[Lyssavirus]]'', họ ''[[Rhabdoviridae]]''.<ref name="Singh"/><ref name="Fisher">{{cite journal | last1 = Fisher | first1 = Christine R. | last2 = Streicker | first2 = Daniel G. | last3 = Schnell | first3 = Matthias J. | title = The spread and evolution of rabies virus: conquering new frontiers | journal = Nature Reviews Microbiology | date = 26 February 2018 | volume = 16 | issue = 4 | pages = 241–255 | doi = 10.1038/nrmicro.2018.11 | pmid = 29479072 | pmc = 6899062 | s2cid = 3686016}}</ref> Hạt virus hoàn chỉnh (virion) có hình viên đạn với chiều dài 250 nm, đường kính 70 nm.<ref name="Osakada">{{cite journal | last1 = Osakada | first1 = Fumitaka | last2 = Callaway | first2 = Edward M | title = Design and generation of recombinant rabies virus vectors | journal = Nature Protocols | date = 25 July 2013 | volume = 8 | issue = 8 | pages = 1583–1601 | doi = 10.1038/nprot.2013.094 | pmid = 23887178 | pmc = 4028848 | s2cid = 5457487}}</ref> Bộ gen RNA khá nhỏ chỉ khoảng 12 kilobase mã hóa năm protein: nucleoprotein (N), phosphoprotein (P), matrix protein (M), glycoprotein (G), và polymerase (L).<ref name="Dietzschold"/><ref name="Fisher"/> Giống như mọi virus RNA sợi âm, bộ gen RNA của virus dại được bọc chặt bởi nucleprotein (N), tạo thành ribonucleoprotein (RNP) xoắn ốc.<ref name="Osakada"/><ref name="Schnell9">{{cite journal | last1 = Schnell | first1 = Matthias J. | last2 = McGettigan | first2 = James P. | last3 = Wirblich | first3 = Christoph | last4 = Papaneri | first4 = Amy | title = The cell biology of rabies virus: using stealth to reach the brain | journal = Nature Reviews Microbiology | date = 30 November 2009 | volume = 8 | issue = 1 | pages = 51–61 | doi = 10.1038/nrmicro2260 | pmid = 19946287 | s2cid = 6361798}}</ref> Chỉ RNP mới có thể làm khuôn cho phiên mã và sao chép.<ref name="Osakada"/><ref name="Schnell9"/> Lõi RNP bao gồm các protein N, P, và L được bao quanh bởi protein M có chức năng như cầu nối giữa lõi và màng, nơi protein G gắn vào.<ref name="Schnell9"/>{{sfn|Fooks|Jackson|2020|p=45}}
  
Sau khi xâm nhập cơ thể, virus dại tránh né bị hệ miễn dịch phát hiện và nhân bản trong mô cơ.{{sfn|Wilson et al.|2019|p=8}}{{sfn|Fooks|Jackson|2020|p=304}} Trong khi có năng lực thoát được phản ứng miễn dịch bẩm sinh, virus dễ bị trung hòa nếu [[kháng thể]] hiện diện.<ref name="Fisher"/> Virus sau đó bám vào thụ thể acetylcholine nicotine tại điểm giao thần kinh cơ rồi di chuyển trong sợi trục của dây thần kinh ngoại biên nhờ vận chuyển sợi trục ngược.{{sfn|Fooks|Jackson|2020|p=304}}<ref name="Jackson">{{cite journal | last1 = Jackson | first1 = Alan | title = Update on rabies | journal = Research and Reports in Tropical Medicine | date = February 2011 | volume = 2011 | issue = 2 | page = 31–43 | doi = 10.2147/RRTM.S16013 | pmid = 30881178 | pmc = 6415642 | s2cid = 81984759 | doi-access = free}}</ref> Khi đã đến được tủy sống, virus nhanh chóng phân tán ra khắp hệ thần kinh trung ương và nhiễm vào nhiều loại tế bào thần kinh.<ref name="Jackson"/> Về sau, virus lại lan tỏa ra khỏi hệ thần kinh trung ương đến nhiều cơ quan như tuyến nước bọt, da, giác mạc, tim.{{sfn|Fooks|Jackson|2020|p=304}}<ref name="Jackson"/>
+
Sau khi xâm nhập cơ thể, virus dại tránh né bị hệ miễn dịch phát hiện và nhân bản trong mô cơ.{{sfn|Wilson et al.|2019|p=8}}{{sfn|Fooks|Jackson|2020|p=304}} Trong khi có năng lực thoát được phản ứng miễn dịch bẩm sinh, virus dễ bị trung hòa nếu [[kháng thể]] hiện diện.<ref name="Fisher"/> Virus sau đó bám vào thụ thể acetylcholine nicotine tại điểm giao thần kinh cơ rồi di chuyển trong sợi trục của dây thần kinh ngoại biên nhờ vận chuyển sợi trục ngược.{{sfn|Fooks|Jackson|2020|p=304}}<ref name="Jackson">{{cite journal | last1 = Jackson | first1 = Alan | title = Update on rabies | journal = Research and Reports in Tropical Medicine | date = February 2011 | volume = 2011 | issue = 2 | page = 31–43 | doi = 10.2147/RRTM.S16013 | pmid = 30881178 | pmc = 6415642 | s2cid = 81984759 | doi-access = free}}</ref> Khi đã đến được neuron [[tủy sống]], virus nhanh chóng phân tán ra khắp [[hệ thần kinh trung ương]] và nhiễm vào nhiều loại tế bào thần kinh.<ref name="Jackson"/> Về sau, virus lại lan tỏa ra khỏi hệ thần kinh trung ương đến nhiều cơ quan như [[tuyến nước bọt]], da, giác mạc, tim.{{sfn|Fooks|Jackson|2020|p=304}}<ref name="Jackson"/> Việc xâm nhập tuyến nước bọt có ý nghĩa quan trọng giúp virus có thể lây nhiễm sang vật chủ mới qua hành vi cắn.<ref name="Jackson"/>
 +
 
 +
Quá trình phát tán nhanh chóng của virus từ neuron qua [[synapse]] sang neuron trong não và tủy sống gây viêm não tủy.{{sfn|Fooks|Jackson|2020|p=347}} Diễn biến lâm sàng của bệnh dại thường kết thúc với hôn mê, suy tim và suy hô hấp.{{sfn|Wilson et al.|2019|p=25}} Trước khi triệu chứng xuất hiện, bệnh dại có thể cứu chữa được bằng vắc-xin và globulin miễn dịch<ref name="Yousaf">{{cite journal | last1 = Yousaf | first1 = Muhammad Zubair | last2 = Qasim | first2 = Muhammad | last3 = Zia | first3 = Sadia | last4 = Rehman Khan | first4 = Muti ur | last5 = Ashfaq | first5 = Usman Ali | last6 = Khan | first6 = Sanaullah | title = Rabies molecular virology, diagnosis, prevention and treatment | journal = Virology Journal | date = 21 February 2012 | volume = 9 | issue = 1 | doi = 10.1186/1743-422X-9-50 | pmid = 22348291 | pmc = 3307483 | s2cid = 1669807 | doi-access = free}}</ref> nhưng sau đó thì gần như là không và tỷ lệ tử vong là trên 99,9%.{{sfn|Wilson et al.|2019|p=25}}
 +
 
 +
== Sinh bệnh/sinh lý bệnh ==
 +
Nhiễm virus dại gây viêm não ở người có tỷ lệ tử vong gần 100%. Một điều ngạc nhiên là cơ thể không thể giải quyết nhiễm trùng trong khi cả chủng ngừa trước và sau phơi nhiễm (nếu đúng cách) đều ngăn ngừa bệnh hiệu quả. Yếu tố miễn dịch bảo vệ chính mà chủng ngừa đem lại là [[kháng thể trung hòa]]. Các tế bào T CD4<sup>+</sup> góp phần tạo miễn dịch còn tế bào T CD8<sup>+</sup> dường như không có vai trò bảo vệ mà ngược lại còn có thể làm hại vật chủ. Một lý do mà hệ miễn dịch thất bại có thể là phản ứng yếu ớt trước sự hiện diện của virus, mặc cho thời gian từ phơi nhiễm đến ra bệnh kéo dài hàng tháng. Ở nhiều ca bệnh kháng thể trung hòa chỉ phát hiện thấy khi triệu chứng đã trở nên nghiêm trọng. Thêm nữa, khi kháng thể được phát hiện trong [[huyết thanh]] nó cũng ít khi có trong [[dịch não tủy]] gợi ý sự thâm nhập hạn chế vào [[hệ thần kinh trung ương]], nơi cần nó nhất.<ref name="Johnson">{{cite journal | last=Johnson | first=Nicholas | last2=Cunningham | first2=Adam F. | last3=Fooks | first3=Anthony R. | title=The immune response to rabies virus infection and vaccination | journal=Vaccine | volume=28 | issue=23 | date=2010 | doi=10.1016/j.vaccine.2010.03.039 | pages=3896–3901 | pmid=20368119 | s2cid=11061570}}</ref>
 +
 
 +
Thiếu vắng sự kích thích miễn dịch trong thời gian nhiễm virus dại tiền xâm lấn thần kinh là [[gót chân Achilles]] của phản ứng miễn dịch. Có nhiều loại virus nhiễm vào não gây viêm não và suy giảm thần kinh nhưng không loại nào luôn khiến vật chủ tử vong như virus dại. Một phần lý do là nhiều loại virus ban đầu sao chép ở mô ngoại vi không thần kinh cho phép phản ứng miễn dịch được kích hoạt kịp thời trước khi vật chủ bị lấn át, trong khi virus dại dường như chỉ sao chép trong neuron và phản ứng kháng thể tại chỗ không được tạo ra đủ nhanh. Có thể lượng kháng nguyên lộ diện sau nhiễm trùng không đủ để khơi mào một phản ứng hiệu quả hoặc virus tích cực áp chế chức năng miễn dịch. [[Hàng rào máu não]] cũng là một rào cản khiến các tác nhân miễn dịch như kháng thể hay tế bào B không đến được nơi chúng cần đến.<ref name="Johnson2">{{cite journal | last=Johnson | first=Nicholas | title=Interplay between rabies virus and the mammalian immune system | journal=World Journal of Clinical Infectious Diseases | volume=5 | issue=4 | date=2015 | issn=2220-3176 | doi=10.5495/wjcid.v5.i4.67 | doi-access=free | page=67 | s2cid=90656480}}</ref>
 +
 
 +
Ở trong hệ thần kinh, virus cần bảo tồn sự toàn vẹn của mạng lưới thần kinh để hoàn thành chu kỳ. Virus dại có hai chiến lược chính để đối phó phản ứng của vật chủ. Thứ nhất, các neuron nhiễm virus biểu hiện tăng các phân tử hủy hoại miễn dịch như B7-H1, HLA-G và FasL, qua đó kích hoạt tiêu diệt các tế bào T di trú biểu hiện những phối tử tương ứng. Thứ hai, virus bảo vệ các neuron bị nhiễm khỏi [[apoptosis]] nhờ năng lực của protein G tăng cường tín hiệu sinh tồn cho neuron. Qua đó, virus vô hiệu hóa sự can thiệp của phản ứng phòng vệ, bảo toàn con đường đến hệ thần kinh trung ương. Đây có thể xem như sự lật đổ toàn diện hệ miễn dịch và sự thích nghi thắng lợi của virus.<ref name="Lafon">{{cite book | last=Lafon | first=Monique | title=Advances in Virus Research | chapter=Evasive Strategies in Rabies Virus Infection | publisher=Elsevier | volume=79 | date=2011 | isbn=978-0-12-387040-7 | doi=10.1016/b978-0-12-387040-7.00003-2 | page=33–53 | pmid=21601041 | s2cid=19162294}}</ref>
 
{{clear}}
 
{{clear}}
  

Bản hiện tại lúc 23:29, ngày 27 tháng 7 năm 2024

Rabies lyssavirus
Rabies Virus (51706598561).jpg
Virus dại (màu đỏ) trên ảnh hiển vi điện tử được tạo màu.
Phân loại virus e
(chưa phân loại): Virus
Vực: Riboviria
Giới: Orthornavirae
Ngành: Negarnaviricota
Lớp: Monjiviricetes
Bộ: Mononegavirales
Họ: Rhabdoviridae
Chi: Lyssavirus
Loài:
Rabies lyssavirus
Virus thành viên
Synonym
  • Virus dại

Virus dại, tên khoa học Rabies lyssavirus, là một virus hướng thần kinh gây bệnh dại ở người và động vật.[1] Virus này có ở hầu khắp mọi nơi trên thế giới, chỉ trừ châu Nam Cực và một số hòn đảo.[2] Ngoài tự nhiên, dơiđộng vật ăn thịt là vật chủ chính của virus, dù vậy nó có thể nhiễm vào gần như mọi loại động vật có vú.[3][4] Con đường lây nhiễm chính của virus là từ nước bọt của động vật mang bệnh xâm nhập cơ thể động vật khác qua vết cắn.[5][6] Con người nhiễm virus hầu hết là do bị chó cắn (hơn 99%).[7][8] Virus dại không sống sót được bên ngoài vật chủ, nó có thể bị tiêu diệt bởi bức xạ tử ngoại, cực trị pH, dung môi hữu cơ, nhiệt độ cao, môi trường khô.[9]

Virus dại là một virus RNA sợi đơn âm thuộc chi Lyssavirus, họ Rhabdoviridae.[6][10] Hạt virus hoàn chỉnh (virion) có hình viên đạn với chiều dài 250 nm, đường kính 70 nm.[11] Bộ gen RNA khá nhỏ chỉ khoảng 12 kilobase mã hóa năm protein: nucleoprotein (N), phosphoprotein (P), matrix protein (M), glycoprotein (G), và polymerase (L).[4][10] Giống như mọi virus RNA sợi âm, bộ gen RNA của virus dại được bọc chặt bởi nucleprotein (N), tạo thành ribonucleoprotein (RNP) xoắn ốc.[11][12] Chỉ RNP mới có thể làm khuôn cho phiên mã và sao chép.[11][12] Lõi RNP bao gồm các protein N, P, và L được bao quanh bởi protein M có chức năng như cầu nối giữa lõi và màng, nơi protein G gắn vào.[12][13]

Sau khi xâm nhập cơ thể, virus dại tránh né bị hệ miễn dịch phát hiện và nhân bản trong mô cơ.[14][15] Trong khi có năng lực thoát được phản ứng miễn dịch bẩm sinh, virus dễ bị trung hòa nếu kháng thể hiện diện.[10] Virus sau đó bám vào thụ thể acetylcholine nicotine tại điểm giao thần kinh cơ rồi di chuyển trong sợi trục của dây thần kinh ngoại biên nhờ vận chuyển sợi trục ngược.[15][16] Khi đã đến được neuron tủy sống, virus nhanh chóng phân tán ra khắp hệ thần kinh trung ương và nhiễm vào nhiều loại tế bào thần kinh.[16] Về sau, virus lại lan tỏa ra khỏi hệ thần kinh trung ương đến nhiều cơ quan như tuyến nước bọt, da, giác mạc, tim.[15][16] Việc xâm nhập tuyến nước bọt có ý nghĩa quan trọng giúp virus có thể lây nhiễm sang vật chủ mới qua hành vi cắn.[16]

Quá trình phát tán nhanh chóng của virus từ neuron qua synapse sang neuron trong não và tủy sống gây viêm não tủy.[17] Diễn biến lâm sàng của bệnh dại thường kết thúc với hôn mê, suy tim và suy hô hấp.[18] Trước khi triệu chứng xuất hiện, bệnh dại có thể cứu chữa được bằng vắc-xin và globulin miễn dịch[19] nhưng sau đó thì gần như là không và tỷ lệ tử vong là trên 99,9%.[18]

Sinh bệnh/sinh lý bệnh[sửa]

Nhiễm virus dại gây viêm não ở người có tỷ lệ tử vong gần 100%. Một điều ngạc nhiên là cơ thể không thể giải quyết nhiễm trùng trong khi cả chủng ngừa trước và sau phơi nhiễm (nếu đúng cách) đều ngăn ngừa bệnh hiệu quả. Yếu tố miễn dịch bảo vệ chính mà chủng ngừa đem lại là kháng thể trung hòa. Các tế bào T CD4+ góp phần tạo miễn dịch còn tế bào T CD8+ dường như không có vai trò bảo vệ mà ngược lại còn có thể làm hại vật chủ. Một lý do mà hệ miễn dịch thất bại có thể là phản ứng yếu ớt trước sự hiện diện của virus, mặc cho thời gian từ phơi nhiễm đến ra bệnh kéo dài hàng tháng. Ở nhiều ca bệnh kháng thể trung hòa chỉ phát hiện thấy khi triệu chứng đã trở nên nghiêm trọng. Thêm nữa, khi kháng thể được phát hiện trong huyết thanh nó cũng ít khi có trong dịch não tủy gợi ý sự thâm nhập hạn chế vào hệ thần kinh trung ương, nơi cần nó nhất.[20]

Thiếu vắng sự kích thích miễn dịch trong thời gian nhiễm virus dại tiền xâm lấn thần kinh là gót chân Achilles của phản ứng miễn dịch. Có nhiều loại virus nhiễm vào não gây viêm não và suy giảm thần kinh nhưng không loại nào luôn khiến vật chủ tử vong như virus dại. Một phần lý do là nhiều loại virus ban đầu sao chép ở mô ngoại vi không thần kinh cho phép phản ứng miễn dịch được kích hoạt kịp thời trước khi vật chủ bị lấn át, trong khi virus dại dường như chỉ sao chép trong neuron và phản ứng kháng thể tại chỗ không được tạo ra đủ nhanh. Có thể lượng kháng nguyên lộ diện sau nhiễm trùng không đủ để khơi mào một phản ứng hiệu quả hoặc virus tích cực áp chế chức năng miễn dịch. Hàng rào máu não cũng là một rào cản khiến các tác nhân miễn dịch như kháng thể hay tế bào B không đến được nơi chúng cần đến.[21]

Ở trong hệ thần kinh, virus cần bảo tồn sự toàn vẹn của mạng lưới thần kinh để hoàn thành chu kỳ. Virus dại có hai chiến lược chính để đối phó phản ứng của vật chủ. Thứ nhất, các neuron nhiễm virus biểu hiện tăng các phân tử hủy hoại miễn dịch như B7-H1, HLA-G và FasL, qua đó kích hoạt tiêu diệt các tế bào T di trú biểu hiện những phối tử tương ứng. Thứ hai, virus bảo vệ các neuron bị nhiễm khỏi apoptosis nhờ năng lực của protein G tăng cường tín hiệu sinh tồn cho neuron. Qua đó, virus vô hiệu hóa sự can thiệp của phản ứng phòng vệ, bảo toàn con đường đến hệ thần kinh trung ương. Đây có thể xem như sự lật đổ toàn diện hệ miễn dịch và sự thích nghi thắng lợi của virus.[22]

Tham khảo[sửa]

  1. Fooks & Jackson 2020, tr. 43.
  2. Taylor, Louise; Nel, Louis (tháng 11 năm 2015), "Global epidemiology of canine rabies: past, present, and future prospects", Veterinary Medicine: Research and Reports: 361, doi:10.2147/VMRR.S51147, PMC 6067664, PMID 30101121, S2CID 3734521
  3. Ding, Nai-Zheng; Xu, Dong-Shuai; Sun, Yuan-Yuan; He, Hong-Bin; He, Cheng-Qiang (ngày 21 tháng 3 năm 2017), "A permanent host shift of rabies virus from Chiroptera to Carnivora associated with recombination", Scientific Reports, 7 (1), doi:10.1038/s41598-017-00395-2, PMC 5428239, PMID 28325933, S2CID 3296352
  4. a b Dietzschold, Bernhard; Li, Jianwei; Faber, Milosz; Schnell, Matthias (tháng 9 năm 2008), "Concepts in the pathogenesis of rabies", Future Virology, 3 (5): 481–490, doi:10.2217/17460794.3.5.481, PMC 2600441, PMID 19578477, S2CID 31988496
  5. Wilson et al. 2019, tr. 7.
  6. a b Singh, Rajendra; Singh, Karam Pal; Cherian, Susan; Saminathan, Mani; Kapoor, Sanjay; Manjunatha Reddy, G.B.; Panda, Shibani; Dhama, Kuldeep (ngày 1 tháng 1 năm 2017), "Rabies – epidemiology, pathogenesis, public health concerns and advances in diagnosis and control: a comprehensive review", Veterinary Quarterly, 37 (1): 212–251, doi:10.1080/01652176.2017.1343516, PMID 28643547, S2CID 33231304
  7. Fooks, Anthony R; Banyard, Ashley C; Horton, Daniel L; Johnson, Nicholas; McElhinney, Lorraine M; Jackson, Alan C (tháng 10 năm 2014), "Current status of rabies and prospects for elimination", The Lancet, 384 (9951): 1389–1399, doi:10.1016/S0140-6736(13)62707-5, PMC 7159301, PMID 24828901, S2CID 7924711
  8. Fooks, Anthony R.; Cliquet, Florence; Finke, Stefan; Freuling, Conrad; Hemachudha, Thiravat; Mani, Reeta S.; Müller, Thomas; Nadin-Davis, Susan; Picard-Meyer, Evelyne; Wilde, Henry; Banyard, Ashley C. (ngày 30 tháng 11 năm 2017), "Rabies", Nature Reviews Disease Primers, 3 (1), doi:10.1038/nrdp.2017.91, PMID 29188797
  9. Wilson et al. 2019, tr. 10.
  10. a b c Fisher, Christine R.; Streicker, Daniel G.; Schnell, Matthias J. (ngày 26 tháng 2 năm 2018), "The spread and evolution of rabies virus: conquering new frontiers", Nature Reviews Microbiology, 16 (4): 241–255, doi:10.1038/nrmicro.2018.11, PMC 6899062, PMID 29479072, S2CID 3686016
  11. a b c Osakada, Fumitaka; Callaway, Edward M (ngày 25 tháng 7 năm 2013), "Design and generation of recombinant rabies virus vectors", Nature Protocols, 8 (8): 1583–1601, doi:10.1038/nprot.2013.094, PMC 4028848, PMID 23887178, S2CID 5457487
  12. a b c Schnell, Matthias J.; McGettigan, James P.; Wirblich, Christoph; Papaneri, Amy (ngày 30 tháng 11 năm 2009), "The cell biology of rabies virus: using stealth to reach the brain", Nature Reviews Microbiology, 8 (1): 51–61, doi:10.1038/nrmicro2260, PMID 19946287, S2CID 6361798
  13. Fooks & Jackson 2020, tr. 45.
  14. Wilson et al. 2019, tr. 8.
  15. a b c Fooks & Jackson 2020, tr. 304.
  16. a b c d Jackson, Alan (tháng 2 năm 2011), "Update on rabies", Research and Reports in Tropical Medicine, 2011 (2): 31–43, doi:10.2147/RRTM.S16013, PMC 6415642, PMID 30881178, S2CID 81984759
  17. Fooks & Jackson 2020, tr. 347.
  18. a b Wilson et al. 2019, tr. 25.
  19. Yousaf, Muhammad Zubair; Qasim, Muhammad; Zia, Sadia; Rehman Khan, Muti ur; Ashfaq, Usman Ali; Khan, Sanaullah (ngày 21 tháng 2 năm 2012), "Rabies molecular virology, diagnosis, prevention and treatment", Virology Journal, 9 (1), doi:10.1186/1743-422X-9-50, PMC 3307483, PMID 22348291, S2CID 1669807
  20. Johnson, Nicholas; Cunningham, Adam F.; Fooks, Anthony R. (2010), "The immune response to rabies virus infection and vaccination", Vaccine, 28 (23): 3896–3901, doi:10.1016/j.vaccine.2010.03.039, PMID 20368119, S2CID 11061570
  21. Johnson, Nicholas (2015), "Interplay between rabies virus and the mammalian immune system", World Journal of Clinical Infectious Diseases, 5 (4): 67, doi:10.5495/wjcid.v5.i4.67, ISSN 2220-3176, S2CID 90656480
  22. Lafon, Monique (2011), "Evasive Strategies in Rabies Virus Infection", Advances in Virus Research, 79, Elsevier, tr. 33–53, doi:10.1016/b978-0-12-387040-7.00003-2, ISBN 978-0-12-387040-7, PMID 21601041, S2CID 19162294

Sách[sửa]