Mục từ này cần được bình duyệt
Khác biệt giữa các bản “Chiến tranh Lạnh”
 
(Không hiển thị 225 phiên bản của cùng người dùng ở giữa)
Dòng 1: Dòng 1:
 
<indicator name="mới">[[File:UnderCon icon.svg|40px|link={{TALKPAGENAME}}#Bình duyệt|alt=Mục từ này cần được bình duyệt|Mục từ này cần được bình duyệt]]</indicator>
 
<indicator name="mới">[[File:UnderCon icon.svg|40px|link={{TALKPAGENAME}}#Bình duyệt|alt=Mục từ này cần được bình duyệt|Mục từ này cần được bình duyệt]]</indicator>
 
{{Infobox
 
{{Infobox
|above        = Chiến tranh Lạnh
+
| above        = Chiến tranh Lạnh
|abovestyle  = background-color:#C3D6EF;font-size:110%
+
| abovestyle  = background-color:#C3D6EF;font-size:110%
| subheader  = 1947–1991<br>Một phần của [[Hậu Chiến tranh thế giới thứ Hai|kỷ nguyên hậu Thế chiến II]]
+
| subheader  = [[Học thuyết Truman|12 tháng 3 năm 1947]] – [[Liên Xô tan rã|26 tháng 12 năm 1991]]
 
| subheaderstyle  = background-color:#DCDCDC
 
| subheaderstyle  = background-color:#DCDCDC
 
| image = [[File:NATO_vs._Warsaw_(1949-1990).png|300px]]
 
| image = [[File:NATO_vs._Warsaw_(1949-1990).png|300px]]
 
[[File:Cold War alliances mid-1975.svg|300px]]
 
[[File:Cold War alliances mid-1975.svg|300px]]
 
 
'''Trên:''' {{legend inline|#005ED0|[[NATO]]}} và {{legend inline|#E40000|[[Khối Warszawa]]}} trong Chiến tranh Lạnh<br>
 
'''Trên:''' {{legend inline|#005ED0|[[NATO]]}} và {{legend inline|#E40000|[[Khối Warszawa]]}} trong Chiến tranh Lạnh<br>
'''Dưới:''' [["Thế giới thứ Ba"]] thời Chiến tranh Lạnh, tháng 4 – tháng 8 năm 1975
+
'''Dưới:''' [[Thế giới thứ Ba]] thời Chiến tranh Lạnh, tháng 4 – tháng 8 năm 1975
{{legend|#3465A4|[[Thế giới thứ Nhất]]: [[Khối Tây]] do [[Hoa Kỳ]], [[Nhật Bản]] và đồng minh cầm đầu}}
+
{{legend|#3465A4|[[Thế giới thứ Nhất]]: [[Khối Tây]] đứng đầu là [[Hoa Kỳ]] và đồng minh}}
{{legend|#D40000|[[Thế giới thứ Hai]]: [[Khối Đông]] do [[Liên Xô]], [[Trung Quốc]] và đồng minh cầm đầu}}
+
{{legend|#D40000|[[Thế giới thứ Hai]]: [[Khối Đông]] đứng đầu là [[Liên Xô]], [[Trung Quốc]] và đồng minh}}
{{legend|#73D216|[[Thế giới thứ Ba]]: Các nước [[quốc gia trung lập|trung lập]] và [[phong trào không liên kết|không liên kết]]}}
+
{{legend|#C0C0C0|[[Thế giới thứ Ba]]: Các nước [[quốc gia trung lập|trung lập]] và [[phong trào không liên kết|không liên kết]]}}
<hr style="background-color:#F8F9FA"/>
 
[[File:IvyMike2.jpg|300px]]<hr style="background-color:#F8F9FA"/>[[Đám mây hình nấm]] của vụ thử hạt nhân [[Ivy Mike]], 1952; một trong hơn một ngàn vụ thử tương tự mà Hoa Kỳ tiến hành giai đoạn 1945–1992
 
<hr style="background-color:#F8F9FA"/>
 
[[File:KoreanWarRefugeeWithBaby.jpg|300px]]<hr style="background-color:#F8F9FA"/>Thiếu nữ Triều Tiên với người em trai trên lưng mệt mỏi lê bước gần xe tăng [[M46 Patton]], Haengju, Hàn Quốc, 1951
 
<hr style="background-color:#F8F9FA"/>
 
[[File:Berlin Wall 1961-11-20.jpg|300px]]<hr style="background-color:#F8F9FA"/>Công nhân [[Đông Đức]] xây dựng [[bức tường Berlin]], 1961
 
<hr style="background-color:#F8F9FA"/>
 
[[File:P-2H Neptune over Soviet ship Oct 1962.jpg|300px]]<hr style="background-color:#F8F9FA"/> Máy bay của Hải quân Mỹ theo dõi tàu hàng Liên Xô trong [[Khủng hoảng Tên lửa Cuba]], 1962
 
<hr style="background-color:#F8F9FA"/>
 
[[File:ASTP handshake - cropped.jpg|300px]]<hr style="background-color:#F8F9FA"/>Phi hành gia Hoa Kỳ [[Thomas P. Stafford]] (phải) bắt tay phi hành gia Liên Xô [[Alexei Leonov]] (trái) ngoài không gian, 1975
 
<hr style="background-color:#F8F9FA"/>
 
[[File:USS Yorktown collision.jpg|300px]]<hr style="background-color:#F8F9FA"/>Tàu ''Bezzavetny'' của Liên Xô đâm vào tàu USS ''Yorktown'', 1988
 
<hr style="background-color:#F8F9FA"/>
 
[[File:West and East Germans at the Brandenburg Gate in 1989.jpg|300px]]<hr style="background-color:#F8F9FA"/>Bức tường Berlin sụp đổ, 1989
 
<hr style="background-color:#F8F9FA"/>
 
[[File:1991 coup attempt1.jpg|300px]]<hr style="background-color:#F8F9FA"/>Xe tăng tại [[Quảng trường Đỏ]] trong [[Đảo chính tháng 8]], 1991
 
 
}}
 
}}
'''Chiến tranh Lạnh''' là thời kỳ căng thẳng [[địa chính trị]] giữa [[Liên Xô]] cùng đồng minh ([[Khối Đông]]) và [[Hoa Kỳ]] cùng đồng minh ([[Khối Tây]]) sau [[Chiến tranh thế giới thứ Hai]]. Các nhà sử học không hoàn toàn thống nhất về thời điểm bắt đầu và kết thúc, nhưng nhìn chung giai đoạn này kéo dài từ lúc [[học thuyết Truman]] ra đời (12 tháng 3 năm 1947) đến khi [[Liên Xô tan rã]] (26 tháng 12 năm 1991).<ref>Robert Service, ''The End of the Cold War: 1985-1991'' (Macmillan, 2015)</ref> Sở dĩ gọi là "lạnh" bởi không có giao tranh quy mô lớn trực tiếp giữa hai [[siêu cường]] mà mỗi bên chỉ hỗ trợ những cuộc xung đột địa bàn lớn gọi là [[chiến tranh ủy nhiệm]]. Căn nguyên của sự đối đầu tham vọng giành được sức ảnh hưởng về ý thức hệ và địa chính trị trên toàn cầu của cả hai sau mối liên minh tạm thời thành công với thắng lợi trước [[phe Trục]] vào năm 1945.<ref>{{Cite book|last=Sempa|first=Francis|url=https://books.google.com/books?id=Px4uDwAAQBAJ|title=Geopolitics: From the Cold War to the 21st Century|date=2017-07-12|publisher=Routledge|isbn=978-1-351-51768-3}}</ref> Bên cạnh phát triển vũ khí hạt nhân và triển khai quân sự thông thường, cuộc đấu vì thế thống trị còn được thể hiện qua những phương thức gián tiếp như [[chiến tranh tâm lý]], hoạt động [[tuyên truyền]], [[tình báo]], [[cấm vận]], ganh đua tại những sự kiện thể thao và cạnh tranh về công nghệ như [[Chạy đua Không gian]].
+
'''Chiến tranh Lạnh''' là thời kỳ căng thẳng [[địa chính trị]] giữa [[Liên Xô]] cùng đồng minh ([[Khối Đông]]) và [[Hoa Kỳ]] cùng đồng minh ([[Khối Tây]]) sau [[Chiến tranh thế giới thứ Hai]]. Các nhà sử học không hoàn toàn thống nhất về thời điểm bắt đầu và kết thúc, nhưng nhìn chung giai đoạn này kéo dài từ lúc [[học thuyết Truman]] ra đời (12 tháng 3 năm 1947) đến khi [[Liên Xô tan rã]] (26 tháng 12 năm 1991). Sở dĩ gọi là "lạnh" bởi không có giao tranh quy mô lớn trực tiếp giữa hai [[siêu cường]] mà mỗi bên chỉ hỗ trợ những cuộc xung đột địa bàn lớn gọi là [[chiến tranh ủy nhiệm]]. Tình trạng đối đầu xuất phát từ tham vọng tranh giành sức ảnh hưởng về ý thức hệ và địa chính trị trên toàn cầu của cả hai sau mối liên minh tạm thời thành công với thắng lợi trước [[phe Trục]] vào năm 1945. Bên cạnh phát triển vũ khí hạt nhân và triển khai quân sự thông thường, cuộc đấu vì thế thống trị còn được thể hiện qua những phương thức gián tiếp như [[chiến tranh tâm lý]], hoạt động [[tuyên truyền]], [[tình báo]], [[cấm vận]], ganh đua tại những sự kiện thể thao và cạnh tranh về công nghệ như [[Chạy đua Không gian]].
  
Khối Tây dẫn đầu là Hoa Kỳ và các quốc gia [[Thế giới thứ Nhất]] khác mà nhìn chung [[dân chủ tự do]] nhưng bị ràng buộc với một mạng lưới các [[chủ nghĩa chuyên chế|nước chuyên chế]] mà đa phần là cựu thuộc địa của họ.{{sfn|G. Jones|2014|pp=176–79}} Liên Xô và Đảng Cộng sản nước này lãnh đạo Khối Đông đồng thời có tầm ảnh hưởng khắp [[Thế giới thứ Hai]]. Chính phủ Hoa Kỳ hỗ trợ các chính phủ cánh hữu cùng những cuộc nổi dậy, trong khi chính phủ Liên Xô tài trợ các đảng cộng sản và những cuộc cách mạng trên thế giới. Sau khi hầu hết các nước thuộc địa giành độc lập vào thời kỳ 1945–1960 thì nơi đây đã biến thành chiến trường [[Thế giới thứ Ba]] của Chiến tranh Lạnh.
+
Khối Tây dẫn đầu là Hoa Kỳ và các quốc gia [[Thế giới thứ Nhất]] khác mà nhìn chung [[dân chủ tự do]] nhưng bị ràng buộc với một mạng lưới các [[chủ nghĩa chuyên chế|nước chuyên chế]] mà đa phần là cựu thuộc địa của họ. Liên Xô và Đảng Cộng sản nước này lãnh đạo Khối Đông đồng thời có tầm ảnh hưởng khắp [[Thế giới thứ Hai]]. Chính phủ Hoa Kỳ hỗ trợ các chính phủ cánh hữu cùng những cuộc nổi dậy, trong khi chính phủ Liên Xô tài trợ các đảng cộng sản và những cuộc cách mạng trên thế giới. Sau khi hầu hết các nước thuộc địa giành độc lập vào thời kỳ 1945–1960 thì nơi đây đã biến thành chiến trường [[Thế giới thứ Ba]] của Chiến tranh Lạnh.
  
 
[[Chiến tranh Lạnh (1947–1953)|Giai đoạn đầu tiên]] của Chiến tranh Lạnh bắt đầu không lâu sau khi Chiến tranh thế giới thứ Hai kết thúc năm 1945. Hoa Kỳ sáng lập liên minh quân sự [[NATO]] vào năm 1949 trong nỗi e sợ Liên Xô tấn công và gọi chính sách toàn cầu đối đầu Liên Xô của họ là ''[[ngăn chặn]]''. Hành động phản ứng của Liên Xô là thành lập [[Khối Warszawa]] vào năm 1955. Các cuộc khủng hoảng lớn giai đoạn này gồm [[Phong tỏa Berlin]] 1948–49, [[Nội chiến Trung Quốc]] 1927–1949, [[Chiến tranh Triều Tiên]] 1950–1953, [[Cách mạng Hungary 1956]], [[Khủng hoảng Suez]] 1956, [[Khủng hoảng Berlin 1961]], và [[Khủng hoảng Tên lửa Cuba]] 1962. Hoa Kỳ và Liên Xô cạnh tranh tầm ảnh hưởng ở [[Mỹ Latinh]], [[Trung Đông]], các nước châu Á và châu Phi phi thực dân.
 
[[Chiến tranh Lạnh (1947–1953)|Giai đoạn đầu tiên]] của Chiến tranh Lạnh bắt đầu không lâu sau khi Chiến tranh thế giới thứ Hai kết thúc năm 1945. Hoa Kỳ sáng lập liên minh quân sự [[NATO]] vào năm 1949 trong nỗi e sợ Liên Xô tấn công và gọi chính sách toàn cầu đối đầu Liên Xô của họ là ''[[ngăn chặn]]''. Hành động phản ứng của Liên Xô là thành lập [[Khối Warszawa]] vào năm 1955. Các cuộc khủng hoảng lớn giai đoạn này gồm [[Phong tỏa Berlin]] 1948–49, [[Nội chiến Trung Quốc]] 1927–1949, [[Chiến tranh Triều Tiên]] 1950–1953, [[Cách mạng Hungary 1956]], [[Khủng hoảng Suez]] 1956, [[Khủng hoảng Berlin 1961]], và [[Khủng hoảng Tên lửa Cuba]] 1962. Hoa Kỳ và Liên Xô cạnh tranh tầm ảnh hưởng ở [[Mỹ Latinh]], [[Trung Đông]], các nước châu Á và châu Phi phi thực dân.
  
Sau Khủng hoảng Tên lửa Cuba, [[Chiến tranh Lạnh (1962–1979)|một giai đoạn mới]] bắt đầu chứng kiến [[chia rẽ Trung-Xô|sự chia rẽ]] giữa Liên Xô và Trung Quốc làm phức tạp các mối quan hệ trong khối Cộng sản, trong khi đồng minh Pháp của Hoa Kỳ bắt đầu đòi thêm quyền tự chủ. Liên Xô [[Khối Warszawa xâm lược Tiệp Khắc|xâm lược Tiệp Khắc]] để dập tắt [[Mùa xuân Praha]] 1968 còn Hoa Kỳ vấp phải tình trạng hỗn độn trong nước từ [[phong trào dân quyền]] và phản đối [[Chiến tranh Việt Nam]]. Thời kỳ 1960–70 nổi lên phong trào hòa bình quốc tế từ những người dân yêu chuộng hòa bình trên khắp thế giới. Các hành động phản đối [[thử nghiệm vũ khí hạt nhân]] và ủng hộ [[giải trừ hạt nhân]] diễn ra bên cạnh những cuộc [[biểu tình chống chiến tranh]] quy mô lớn. Sang đến thập niên 1970, cả hai bên bắt đầu tính đến hòa bình và an ninh, mở ra một thời kỳ hòa hoãn chứng kiến các cuộc [[Đàm phán Hạn chế Vũ khí Chiến lược]] cùng mối quan hệ của Hoa Kỳ với Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa sắm vai đối trọng chiến lược với Liên Xô. Một số chế độ Mác-xít tự xưng ra đời ở Thế giới thứ Ba trong nửa sau thập niên 1970, bao gồm [[Cộng hòa Nhân dân Angola]], [[Cộng hòa Nhân dân Mozambique]], [[Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Ethiopia]], [[Campuchia Dân chủ]], [[Cộng hòa Dân chủ Afghanistan]], và [[Cộng hòa Nicaragua]].
+
Sau Khủng hoảng Tên lửa Cuba, [[Chiến tranh Lạnh (1962–1979)|một giai đoạn mới]] bắt đầu chứng kiến [[chia rẽ Trung-Xô|sự chia rẽ]] giữa Liên Xô và Trung Quốc làm phức tạp các mối quan hệ trong khối Cộng sản, trong khi đồng minh Pháp của Hoa Kỳ bắt đầu đòi thêm quyền tự chủ. Liên Xô [[Khối Warszawa xâm lược Tiệp Khắc|xâm lược Tiệp Khắc]] để dập tắt [[Mùa xuân Praha]] 1968 còn Hoa Kỳ vấp phải tình trạng hỗn độn trong nước từ [[phong trào dân quyền]] và phản đối [[Chiến tranh Việt Nam]]. Thời kỳ 1960–70 nổi lên phong trào hòa bình quốc tế từ những người dân yêu chuộng hòa bình trên khắp thế giới. Các hành động phản đối [[thử nghiệm vũ khí hạt nhân]] và ủng hộ [[giải trừ hạt nhân]] diễn ra bên cạnh những cuộc [[biểu tình chống chiến tranh]] quy mô lớn. Sang thập niên 1970, cả hai bên bắt đầu tính đến hòa bình và an ninh, mở ra một thời kỳ hòa hoãn chứng kiến các cuộc [[Đàm phán Hạn chế Vũ khí Chiến lược]] cùng mối quan hệ của Hoa Kỳ với Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa sắm vai đối trọng chiến lược với Liên Xô. Một số chế độ Marxist tự xưng ra đời ở Thế giới thứ Ba trong nửa sau thập niên 1970, bao gồm [[Cộng hòa Nhân dân Angola]], [[Cộng hòa Nhân dân Mozambique]], [[Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Ethiopia]], [[Campuchia Dân chủ]], [[Cộng hòa Dân chủ Afghanistan]], và [[Cộng hòa Nicaragua]].
  
 
Thập niên 1970 trôi qua cũng là lúc hòa hoãn kết thúc với [[Chiến tranh Liên Xô–Afghanistan]] năm 1979. [[Chiến tranh Lạnh (1979–1985)|Đầu thập niên 1980]] là một giai đoạn căng thẳng leo thang khác. Hoa Kỳ gia tăng áp lực kinh tế, quân sự, ngoại giao lên Liên Xô trong lúc nước này đang trải qua sự trì trệ về kinh tế. [[Chiến tranh Lạnh (1985–1991)|Vào giữa thập niên 1980]], nhà lãnh đạo mới của Liên Xô [[Mikhail Gorbachev]] đã giới thiệu những cải cách tự do hóa là ''[[glasnost]]'' (công khai, 1985), ''[[perestroika]]'' (cải tổ, 1987) và chấm dứt sự can thiệp của Liên Xô ở Afghanistan. Sức ép đòi chủ quyền quốc gia ngày càng lớn hơn ở Đông Âu và Gorbachev từ chối tiếp tục hỗ trợ quân sự những chính phủ này.
 
Thập niên 1970 trôi qua cũng là lúc hòa hoãn kết thúc với [[Chiến tranh Liên Xô–Afghanistan]] năm 1979. [[Chiến tranh Lạnh (1979–1985)|Đầu thập niên 1980]] là một giai đoạn căng thẳng leo thang khác. Hoa Kỳ gia tăng áp lực kinh tế, quân sự, ngoại giao lên Liên Xô trong lúc nước này đang trải qua sự trì trệ về kinh tế. [[Chiến tranh Lạnh (1985–1991)|Vào giữa thập niên 1980]], nhà lãnh đạo mới của Liên Xô [[Mikhail Gorbachev]] đã giới thiệu những cải cách tự do hóa là ''[[glasnost]]'' (công khai, 1985), ''[[perestroika]]'' (cải tổ, 1987) và chấm dứt sự can thiệp của Liên Xô ở Afghanistan. Sức ép đòi chủ quyền quốc gia ngày càng lớn hơn ở Đông Âu và Gorbachev từ chối tiếp tục hỗ trợ quân sự những chính phủ này.
  
Vào năm 1989, sự sụp đổ của [[Bức màn Sắt]] sau [[cuộc dã ngoại toàn Âu]] cùng [[Các cuộc cách mạng 1989|một làn sóng cách mạng hòa bình]] đã lật đổ hầu hết chính phủ cộng sản của Khối Đông (ngoại trừ Romania và Afghanistan). Đảng Cộng sản Liên Xô cũng đánh mất quyền hành trong nước và bị cấm sau nỗ lực đảo chính bất thành vào tháng 8 năm 1991. Sự kiện này dẫn đến hệ quả [[Liên Xô tan rã|Liên Xô chính thức tan rã]] vào tháng 12 năm đó, các nước cộng hòa cấu thành tuyên bố độc lập, và các chính quyền cộng sản trên hầu khắp châu Á và châu Phi sụp đổ. Hoa Kỳ lúc này là siêu cường duy nhất còn lại trên thế giới.
+
Vào năm 1989, sự sụp đổ của [[Bức màn Sắt]] cùng [[Các cuộc cách mạng 1989|một làn sóng cách mạng hòa bình]] đã lật đổ hầu hết chính phủ cộng sản của Khối Đông (ngoại trừ Romania và Afghanistan). Đảng Cộng sản Liên Xô cũng đánh mất năng lực kiểm soát trong nước và bị cấm sau nỗ lực đảo chính bất thành vào tháng 8 năm 1991. Sự kiện này dẫn đến hệ quả [[Liên Xô tan rã|Liên Xô chính thức tan rã]] vào tháng 12 năm đó, các nước cộng hòa cấu thành Liên Xô tuyên bố độc lập, và các chính quyền cộng sản trên hầu khắp châu Á và châu Phi sụp đổ. Hoa Kỳ còn lại là siêu cường duy nhất trên thế giới.
  
 
Chiến tranh Lạnh cùng những sự kiện của nó đã để lại một di sản quan trọng. Cuộc chiến thường được nhắc đến trong văn hóa đại chúng, nhất là liên quan đến đề tài gián điệp và hiểm họa chiến tranh hạt nhân.
 
Chiến tranh Lạnh cùng những sự kiện của nó đã để lại một di sản quan trọng. Cuộc chiến thường được nhắc đến trong văn hóa đại chúng, nhất là liên quan đến đề tài gián điệp và hiểm họa chiến tranh hạt nhân.
 
== Chiến tranh thế giới thứ Hai kết thúc (1945–1947) ==
 
=== Các hội nghị thời chiến bàn về châu Âu hậu chiến ===
 
Hậu thế chiến, phe Đồng Minh bất đồng về việc phân chia châu Âu.{{sfn|Gaddis|2005|pp=13–23}} Mỗi bên một ý trong vấn đề thiết lập và duy trì an ninh.{{sfn|Gaddis|2005|pp=13–23}} Một số học giả dám chắc Đồng Minh phương Tây khao khát một hệ thống an ninh mà ở đó chính quyền dân chủ càng phổ biến càng tốt cho phép các quốc gia giải quyết mâu thuẫn một cách hòa bình thông qua các [[tổ chức quốc tế]].{{sfn|Gaddis|1990|p=156}} Một số thì lưu ý phương Tây đã chia rẽ trong tầm nhìn thế giới mới. Thắng lợi về quân sự của Roosevelt ở châu Âu và châu Á, uy thế kinh tế toàn cầu của Hoa Kỳ, và một tổ chức hòa bình thế giới ra đời đã đảm bảo sự tồn tại của [[Đế quốc Anh]] cũng như nền độc lập của các nước Đông và Trung Âu đóng vai [[quốc gia đệm|vùng đệm]] giữa Anh và Liên Xô.{{sfn|Plokhy|2010}}
 
 
[[File:Yalta Conference (Churchill, Roosevelt, Stalin) (B&W).jpg|thumb|left|Winston Churchill, Franklin D. Roosevelt, và Joseph Stalin tại Hội nghị Yalta, 1945]]
 
 
Liên Xô tìm cách chi phối công việc nội bộ của các nước láng giềng.{{sfn|Gaddis|2005|pp=13–23}}{{sfn|Gaddis|1990|p=176}} Trong chiến tranh, Stalin từng lập ra những trung tâm đào tạo đặc biệt cho những người cộng sản ở nhiều nước để họ có thể làm thành lực lượng cảnh sát mật trung thành với Moskva ngay khi Hồng Quân tiếp quản. Các đặc vụ Liên Xô kiểm soát truyền thông, nhất là phát thanh, rồi mau chóng trấn áp mọi tổ chức dân sự độc lập và các đảng chính trị đối địch.{{efn-ua|[[Max Frankel]], "Stalin's Shadow", [https://www.nytimes.com/2012/11/25/books/review/iron-curtain-by-anne-applebaum.html ''New York Times'' 21 Nov 2012] reviewing Anne Applebaum, ''Iron Curtain: The Crushing of Eastern Europe, 1944–1956'' (2012), See Introduction, text after note 26, and ch. 3, 7–9}} Stalin cũng mưu cầu hòa bình tiếp nối với Anh và Mỹ, kỳ vọng tập trung phát triển kinh tế và tái thiết trong nước.{{sfn|Heller|2006|p=27|ps=: <q>From the Soviet perspective, a postwar period of peace and reconstruction was indispensable. Therefore, the continuation of cooperation and peaceful relations with its wartime allies, the United States and Great Britain, was greatly to be desired.</q>}}
 
 
Trong mắt Hoa Kỳ, Stalin có vẻ là một đồng minh tiềm năng giúp họ hoàn thành những mục tiêu, song ngược lại với Anh thì Stalin tỏ ra là mối đe dọa lớn nhất cản trở chương trình nghị sự của họ. Khi mà Liên Xô đã chiếm đóng hầu hết Đông và Trung Âu, Stalin đang nắm lợi thế và hai lãnh đạo phương Tây đều giành giật thiện cảm của Stalin.
 
 
Khác biệt giữa Roosevelt và Churchill dẫn đến những cách ứng phó bất nhất với Liên Xô. Tháng 10 năm 1944, Churchill đến Moskva và đề nghị "[[thỏa thuận phần trăm]]" chia Đông Âu thành các vùng ảnh hưởng tương ứng, trao cho Stalin quyền thế ở Romania, Hungary, Bulgaria còn Churchill giành phần Hy Lạp. Stalin chấp nhận đề nghị này. Tại [[Hội nghị Yalta]] tháng 2 năm 1945, Roosevelt lại ký một thỏa thuận riêng với Stalin về châu Á và từ chối hỗ trợ Churchill vấn đề Ba Lan và bồi thường.{{sfn|Plokhy|2010}} Cuối cùng Roosevelt tán thành thỏa thuận phần trăm{{sfn|Carlton|2000}}{{sfn|Todd|2016|pp=105–11}} song dường như không có sự đồng thuận vững chắc trong công tác dàn xếp châu Âu hậu chiến tranh.{{sfn|Gaddis|2005|p=21}}
 
 
Tại [[Hội nghị Quebec lần hai]], một hội nghị quân sự cấp cao diễn ra ở thành phố Quebec từ ngày 12 đến ngày 16 tháng 9 năm 1944, Churchill và Roosevelt đã đi đến nhất trí về một số vấn đề, trong đó có một kế hoạch cho nước Đức dựa theo kiến nghị ban đầu của Henry Morgenthau Jr. Churchill thảo văn kiện có ý "loại bỏ những ngành công nghiệp chiến tranh ở Ruhr và Saar ... hướng tới chuyển đổi Đức thành một nước thôn quê và nông nghiệp căn bản". Tuy nhiên kế hoạch chia cắt Đức thành vài nước độc lập không còn.{{efn-ua|[[United States Government Printing Office]], Report on the Morgenthau Diaries prepared by the Subcommittee of the [[United States]] Committee of the Judiciary appointed to investigate the Administration of the [[McCarran Internal Security Act]] and other Internal Security Laws, (Washington, 1967) volume 1, pp. 620–21}} Vào ngày 10 tháng 5 năm 1945, Tổng thống Hoa Kỳ Truman ký chỉ thị chiếm đóng [[Kế hoạch Morgenthau|JCS 1067]] có hiệu lực hai năm và được Stalin nồng nhiệt hoan nghênh. Chỉ thị này lệnh cho lực lượng Hoa Kỳ chiếm đóng  "... không làm những việc giúp kinh tế Đức phục hồi".{{sfn|Jonas|1985|p=270}}
 
 
Một số nhà sử học tranh luận rằng Chiến tranh Lạnh bắt đầu khi Mỹ tự mình đàm phán hòa bình với viên tướng SS Karl Wolff ở miền bắc nước Ý. Việc Liên Xô bị gạt ra rìa dẫn tới màn đối đáp căng thẳng giữa Roosevelt và Stalin. Wolff, một tội phạm chiến tranh, xem ra đã được chỉ huy [[Sở Công tác Chiến lược]] (OSS) và giám đốc [[Cục Tình báo Trung ương]] (CIA) tương lai [[Allen Dulles]] đảm bảo miễn tội tại [[tòa án Nuremberg]] khi họ gặp nhau vào tháng 3 năm 1945. Wolff và thuộc hạ được cho là đã hỗ trợ [[Chiến dịch Unthinkable]], một kế hoạch xâm lược Liên Xô bí mật mà Churchill khi đó ủng hộ.{{sfn|von Lingen|2013|pp=6, 81–90}}{{sfn|Rev|2010}}{{sfn|Peck|2017|p=2}}
 
 
Tháng 4 năm 1945, Tổng thống Hoa Kỳ Roosevelt qua đời và Phó Tổng thống [[Harry S. Truman]] lên kế nhiệm. Truman không tin tưởng Stalin và tìm kiếm tư vấn từ một nhóm chuyên gia hàng đầu về chính sách đối ngoại. Cả Churchill lẫn Truman đều phản đối việc Liên Xô hậu thuẫn [[chính phủ Lublin]], đối thủ của [[chính phủ Ba Lan lưu vong]] ở Luân Đôn đã cắt đứt quan hệ với Liên Xô.{{sfn|Zubok|Pleshakov|1996|p=94}}
 
 
Sau chiến thắng năm 1945, Liên Xô chiếm đóng Đông và Trung Âu{{sfn|Gaddis|2005|p=21}} trong khi lực lượng phương Tây duy trì đông đảo ở Tây Âu. Tại Đức và Áo; Pháp, Anh, Liên Xô và Hoa Kỳ lập ra các khu chiếm đóng và một khuôn khổ lỏng lẻo cho việc bốn cường quốc quản lý.{{sfn|Gaddis|2005|p=22}}
 
 
Hội nghị Đồng Minh 1945 ở San Francisco đã thành lập [[Liên Hợp Quốc]] (UN) nhằm duy trì hòa bình thế giới song năng lực cưỡng chế của [[Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc]] lại dễ dàng bị vô hiệu bởi quyền phủ quyết của các thành viên.{{sfn|Glennon|2003}} Vì lẽ đó Liên Hợp Quốc về cơ bản đã biến thành một diễn đàn trao đổi luận điệu khiêu khích thiếu tích cực và Liên Xô xem đó gần như chỉ là sân khấu tuyên truyền.{{sfn|Garthoff|1994|p=401}}
 
 
=== Hội nghị Potsdam và Nhật Bản đầu hàng ===
 
Tại [[Hội nghị Potsdam]] khai màn cuối tháng 7 nổi lên những bất đồng nghiêm trọng về tương lai nước Đức cũng như phần còn lại của Đông và Trung Âu.{{sfn|Byrd|2003}} Liên Xô hối thúc đáp ứng yêu cầu của họ tại Yalta là 20 tỷ đô-la phí bồi thường chiến tranh từ các khu chiếm đóng. Hoa Kỳ và Anh từ chối thu xếp một khoản tiền mà thay vào đó cho phép Liên Xô dỡ bỏ một số ngành công nghiệp khỏi khu chiếm đóng của họ.{{sfn|Moss|1993|p=256}} Ác cảm và ngôn từ hiếu chiến của các bên tham gia đã xác minh thái độ ngờ vực lẫn nhau về ý đồ thù địch và nhằm gia cố vị thế.{{sfn|Wood|2005|p=62}} Ở đó Truman cho Stalin hay rằng Hoa Kỳ đã sở hữu một vũ khí uy lực mới.{{sfn|Gaddis|2005|pp=24–26}}
 
 
Hoa Kỳ mời Anh tham gia dự án bom nguyên tử song giấu kín điều này với Liên Xô. Stalin biết người Mỹ đang chế tạo bom nguyên tử và tỏ thái độ bình thản trước tin này.{{sfn|Gaddis|2005|pp=24–26}} Một tuần sau khi hội nghị Potsdam kết thúc, [[Vụ ném bom nguyên tử xuống Hiroshima và Nagasaki|Hoa Kỳ ném bom Hiroshima và Nagasaki]]. Không lâu sau đó, Stalin phản đối giới chức Hoa Kỳ khi Truman mời chào Liên Xô chút ít ảnh hưởng thực tế ở nước Nhật đang bị chiếm đóng.{{sfn|LaFeber|2002|p=28}} Stalin còn tức giận bởi hành động ném bom nguyên tử, gọi Hoa Kỳ là "siêu dã man" và tuyên bố "thế cân bằng đã bị phá vỡ...Điều đó không thể được." Chính quyền Truman dự định lợi dụng chương trình vũ khí hạt nhân đang tiến hành để gây sức ép lên Liên Xô trong quan hệ quốc tế.{{sfn|Gaddis|2005|pp=24–26}}
 
 
Sau thế chiến, Hoa Kỳ và Anh sử dụng lực lượng quân sự ở Hy Lạp và Triều Tiên để thủ tiêu những lực lượng và chính quyền bản xứ bị xem là cộng sản. [[Lyuh Woon-Hyung]], người hoạt động bí mật vào thời Nhật Bản chiếm đóng, đã chỉ đạo thành lập những ủy ban trên khắp Triều Tiên nhằm phối hợp chuyển giao sang nền độc lập. Sau khi Nhật Bản đầu hàng vào ngày 28 tháng 8, những ủy ban này đã lập nên chính phủ quốc gia Triều Tiên lâm thời và đặt tên nó là [[Cộng hòa Nhân dân Triều Tiên]] (PRK).<ref>Hart-Landsberg, Martin, Korea: Division, Reunification, & U.S. Foreign Policy, Monthly Review Press (1998), p. 65</ref><ref>Cumings, Bruce, The Origins of the Korean War, Liberation and the Emergence of Separate Regimes, 1945–1947, Princeton University Press (1981), p. 88</ref> Vào ngày 8 tháng 9 năm 1945, Hoa Kỳ đưa quân đội đến Triều Tiên rồi thành lập [[Chính phủ Quân sự Lục quân Hoa Kỳ ở Triều Tiên]] (USAMGK) để cai quản lãnh thổ Triều Tiên phía nam vĩ tuyến 38 bắc. Chính phủ Cộng hòa Nhân dân Triều Tiên bị cấm. Chỉ huy quân đội, Trung tướng [[John R. Hodge]] phát biểu "một trong những nhiệm vụ của chúng ta là đập tan chính quyền Cộng sản này."<ref>Cumings, Bruce, "The Autumn Uprising," The Origins of the Korean War, Liberation and the Emergence of Separate Regimes, 1945–1947, Princeton University Press(1981)</ref><ref>Korea Times, June 15, 2015, "Korea Neglects Memory of Provisional Government,"http://www.koreatimes.co.kr/www/news/nation/2016/03/180_180890.html {{Webarchive|url=https://web.archive.org/web/20170108190044/http://www.koreatimes.co.kr/www/news/nation/2016/03/180_180890.html |date=January 8, 2017 }}</ref> Kế đến, Hoa Kỳ hỗ trợ những chính quyền Hàn Quốc độc tài trị vì đến thập niên 1980, khởi đầu với Tổng thống [[Syngman Rhee]].<ref>{{cite book| title = The Making of Modern Korea | last = Buzo | first = Adrian | year = 2002| publisher = Routledge| location = London | isbn = 0-415-23749-1}}</ref><ref name="The Korean War: A History">{{cite book|last1=Cumings|first1=Bruce|title=The Korean War: A History|date=2010|page=111}}</ref><ref>Sydney Morning Herald, 15 Nov. 2008, "[https://www.smh.com.au/world/south-korea-owns-up-to-brutal-past-20081115-gdt2yw.html South Korea Owns Up to Brutal Past] {{Webarchive|url=https://web.archive.org/web/20200728185200/https://www.smh.com.au/world/south-korea-owns-up-to-brutal-past-20081115-gdt2yw.html |date=28 July 2020 }}"</ref>
 
 
== Tham khảo ==
 
{{reflist|20em}}
 

Bản hiện tại lúc 08:11, ngày 14 tháng 5 năm 2024

Chiến tranh Lạnh
12 tháng 3 năm 194726 tháng 12 năm 1991
NATO vs. Warsaw (1949-1990).png

Cold War alliances mid-1975.svg Trên:   NATO  Khối Warszawa trong Chiến tranh Lạnh
Dưới: Thế giới thứ Ba thời Chiến tranh Lạnh, tháng 4 – tháng 8 năm 1975

  Thế giới thứ Nhất: Khối Tây đứng đầu là Hoa Kỳ và đồng minh
  Thế giới thứ Hai: Khối Đông đứng đầu là Liên Xô, Trung Quốc và đồng minh

Chiến tranh Lạnh là thời kỳ căng thẳng địa chính trị giữa Liên Xô cùng đồng minh (Khối Đông) và Hoa Kỳ cùng đồng minh (Khối Tây) sau Chiến tranh thế giới thứ Hai. Các nhà sử học không hoàn toàn thống nhất về thời điểm bắt đầu và kết thúc, nhưng nhìn chung giai đoạn này kéo dài từ lúc học thuyết Truman ra đời (12 tháng 3 năm 1947) đến khi Liên Xô tan rã (26 tháng 12 năm 1991). Sở dĩ gọi là "lạnh" bởi không có giao tranh quy mô lớn trực tiếp giữa hai siêu cường mà mỗi bên chỉ hỗ trợ những cuộc xung đột địa bàn lớn gọi là chiến tranh ủy nhiệm. Tình trạng đối đầu xuất phát từ tham vọng tranh giành sức ảnh hưởng về ý thức hệ và địa chính trị trên toàn cầu của cả hai sau mối liên minh tạm thời thành công với thắng lợi trước phe Trục vào năm 1945. Bên cạnh phát triển vũ khí hạt nhân và triển khai quân sự thông thường, cuộc đấu vì thế thống trị còn được thể hiện qua những phương thức gián tiếp như chiến tranh tâm lý, hoạt động tuyên truyền, tình báo, cấm vận, ganh đua tại những sự kiện thể thao và cạnh tranh về công nghệ như Chạy đua Không gian.

Khối Tây dẫn đầu là Hoa Kỳ và các quốc gia Thế giới thứ Nhất khác mà nhìn chung dân chủ tự do nhưng bị ràng buộc với một mạng lưới các nước chuyên chế mà đa phần là cựu thuộc địa của họ. Liên Xô và Đảng Cộng sản nước này lãnh đạo Khối Đông đồng thời có tầm ảnh hưởng khắp Thế giới thứ Hai. Chính phủ Hoa Kỳ hỗ trợ các chính phủ cánh hữu cùng những cuộc nổi dậy, trong khi chính phủ Liên Xô tài trợ các đảng cộng sản và những cuộc cách mạng trên thế giới. Sau khi hầu hết các nước thuộc địa giành độc lập vào thời kỳ 1945–1960 thì nơi đây đã biến thành chiến trường Thế giới thứ Ba của Chiến tranh Lạnh.

Giai đoạn đầu tiên của Chiến tranh Lạnh bắt đầu không lâu sau khi Chiến tranh thế giới thứ Hai kết thúc năm 1945. Hoa Kỳ sáng lập liên minh quân sự NATO vào năm 1949 trong nỗi e sợ Liên Xô tấn công và gọi chính sách toàn cầu đối đầu Liên Xô của họ là ngăn chặn. Hành động phản ứng của Liên Xô là thành lập Khối Warszawa vào năm 1955. Các cuộc khủng hoảng lớn giai đoạn này gồm Phong tỏa Berlin 1948–49, Nội chiến Trung Quốc 1927–1949, Chiến tranh Triều Tiên 1950–1953, Cách mạng Hungary 1956, Khủng hoảng Suez 1956, Khủng hoảng Berlin 1961, và Khủng hoảng Tên lửa Cuba 1962. Hoa Kỳ và Liên Xô cạnh tranh tầm ảnh hưởng ở Mỹ Latinh, Trung Đông, các nước châu Á và châu Phi phi thực dân.

Sau Khủng hoảng Tên lửa Cuba, một giai đoạn mới bắt đầu chứng kiến sự chia rẽ giữa Liên Xô và Trung Quốc làm phức tạp các mối quan hệ trong khối Cộng sản, trong khi đồng minh Pháp của Hoa Kỳ bắt đầu đòi thêm quyền tự chủ. Liên Xô xâm lược Tiệp Khắc để dập tắt Mùa xuân Praha 1968 còn Hoa Kỳ vấp phải tình trạng hỗn độn trong nước từ phong trào dân quyền và phản đối Chiến tranh Việt Nam. Thời kỳ 1960–70 nổi lên phong trào hòa bình quốc tế từ những người dân yêu chuộng hòa bình trên khắp thế giới. Các hành động phản đối thử nghiệm vũ khí hạt nhân và ủng hộ giải trừ hạt nhân diễn ra bên cạnh những cuộc biểu tình chống chiến tranh quy mô lớn. Sang thập niên 1970, cả hai bên bắt đầu tính đến hòa bình và an ninh, mở ra một thời kỳ hòa hoãn chứng kiến các cuộc Đàm phán Hạn chế Vũ khí Chiến lược cùng mối quan hệ của Hoa Kỳ với Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa sắm vai đối trọng chiến lược với Liên Xô. Một số chế độ Marxist tự xưng ra đời ở Thế giới thứ Ba trong nửa sau thập niên 1970, bao gồm Cộng hòa Nhân dân Angola, Cộng hòa Nhân dân Mozambique, Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Ethiopia, Campuchia Dân chủ, Cộng hòa Dân chủ Afghanistan, và Cộng hòa Nicaragua.

Thập niên 1970 trôi qua cũng là lúc hòa hoãn kết thúc với Chiến tranh Liên Xô–Afghanistan năm 1979. Đầu thập niên 1980 là một giai đoạn căng thẳng leo thang khác. Hoa Kỳ gia tăng áp lực kinh tế, quân sự, ngoại giao lên Liên Xô trong lúc nước này đang trải qua sự trì trệ về kinh tế. Vào giữa thập niên 1980, nhà lãnh đạo mới của Liên Xô Mikhail Gorbachev đã giới thiệu những cải cách tự do hóa là glasnost (công khai, 1985), perestroika (cải tổ, 1987) và chấm dứt sự can thiệp của Liên Xô ở Afghanistan. Sức ép đòi chủ quyền quốc gia ngày càng lớn hơn ở Đông Âu và Gorbachev từ chối tiếp tục hỗ trợ quân sự những chính phủ này.

Vào năm 1989, sự sụp đổ của Bức màn Sắt cùng một làn sóng cách mạng hòa bình đã lật đổ hầu hết chính phủ cộng sản của Khối Đông (ngoại trừ Romania và Afghanistan). Đảng Cộng sản Liên Xô cũng đánh mất năng lực kiểm soát trong nước và bị cấm sau nỗ lực đảo chính bất thành vào tháng 8 năm 1991. Sự kiện này dẫn đến hệ quả Liên Xô chính thức tan rã vào tháng 12 năm đó, các nước cộng hòa cấu thành Liên Xô tuyên bố độc lập, và các chính quyền cộng sản trên hầu khắp châu Á và châu Phi sụp đổ. Hoa Kỳ còn lại là siêu cường duy nhất trên thế giới.

Chiến tranh Lạnh cùng những sự kiện của nó đã để lại một di sản quan trọng. Cuộc chiến thường được nhắc đến trong văn hóa đại chúng, nhất là liên quan đến đề tài gián điệp và hiểm họa chiến tranh hạt nhân.