Khác biệt giữa các bản “Louis Pasteur”
 
(Không hiển thị 2 phiên bản của cùng người dùng ở giữa)
Dòng 41: Dòng 41:
 
== Thời trẻ và giáo dục ==
 
== Thời trẻ và giáo dục ==
 
[[File:Louis Pasteur Geburtshaus in Dole.jpg|thumb|left|upright=0.7|Căn nhà ở Dole nơi Pasteur sinh ra]]
 
[[File:Louis Pasteur Geburtshaus in Dole.jpg|thumb|left|upright=0.7|Căn nhà ở Dole nơi Pasteur sinh ra]]
Louis Pasteur sinh ngày 27 tháng 12 năm 1822 ở [[Dole, Jura]], Pháp trong một gia đình [[Công giáo]] nghèo làm nghề thuộc da.<ref name="catholic intro"/> Ông là con thứ ba của Jean-Joseph Pasteur và Jeanne-Etiennette Roqui. Gia đình họ lần lượt chuyển đến [[Marnoz]] năm 1826 rồi [[Arbois]] năm 1827.<ref>{{cite book|last1=Debré|first1=Patrice|translator-last=Forster|translator-first=Elborg|title=Louis Pasteur|date=2000|publisher=JHU Press|location=Baltimore|isbn=978-0-8018-6529-9|pages=6–7|url=https://books.google.com/books?id=RzOcl-FLw30C&pg=PA6}}</ref><ref>{{cite book|last1=Robbins|first1=Louise|title=Louis Pasteur and the Hidden World of Microbes|date=2001|publisher=Oxford University Press|location=New York|isbn=978-0-19-512227-5|page=14|url=https://books.google.com/books?id=qUHuafXKKBEC&pg=PA14}}</ref> Pasteur bắt đầu học tiểu học vào năm 1831.<ref>{{cite book|last1=Debré|first1=Patrice|translator-last=Forster|translator-first=Elborg|title=Louis Pasteur|date=2000|publisher=JHU Press|location=Baltimore|isbn=978-0-8018-6529-9|pages=8|url=https://books.google.com/books?id=RzOcl-FLw30C&pg=PA8}}</ref>
+
Louis Pasteur sinh ngày 27 tháng 12 năm 1822 ở [[Dole, Jura]], Pháp trong một gia đình [[Công giáo]] nghèo làm nghề thuộc da.<ref name="catholic intro">{{CathEncy| wstitle =Louis Pasteur| author = James J. Walsh}}</ref> Ông là con thứ ba của Jean-Joseph Pasteur và Jeanne-Etiennette Roqui. Gia đình họ lần lượt chuyển đến [[Marnoz]] năm 1826 rồi [[Arbois]] năm 1827.<ref>{{cite book|last1=Debré|first1=Patrice|translator-last=Forster|translator-first=Elborg|title=Louis Pasteur|date=2000|publisher=JHU Press|location=Baltimore|isbn=978-0-8018-6529-9|pages=6–7|url=https://books.google.com/books?id=RzOcl-FLw30C&pg=PA6}}</ref><ref>{{cite book|last1=Robbins|first1=Louise|title=Louis Pasteur and the Hidden World of Microbes|date=2001|publisher=Oxford University Press|location=New York|isbn=978-0-19-512227-5|page=14|url=https://books.google.com/books?id=qUHuafXKKBEC&pg=PA14}}</ref> Pasteur bắt đầu học tiểu học vào năm 1831.<ref>{{cite book|last1=Debré|first1=Patrice|translator-last=Forster|translator-first=Elborg|title=Louis Pasteur|date=2000|publisher=JHU Press|location=Baltimore|isbn=978-0-8018-6529-9|pages=8|url=https://books.google.com/books?id=RzOcl-FLw30C&pg=PA8}}</ref>
  
 
Trong những năm đầu Pasteur là một học sinh trung bình và không quá chú tâm vào việc học bởi sở thích câu cá và phác họa.<ref name="catholic intro"/> Ông đã vẽ nhiều bức phấn màu cùng chân dung của cha mẹ, bạn bè, hàng xóm.<ref>{{cite book|last1=Debré|first1=Patrice|translator-last=Forster|translator-first=Elborg|title=Louis Pasteur|date=2000|publisher=JHU Press|location=Baltimore|isbn=978-0-8018-6529-9|pages=12–13|url=https://books.google.com/books?id=RzOcl-FLw30C&pg=PA12}}</ref> Pasteur học trung học tại Collège d'Arbois.<ref>{{cite book|last1=Robbins|first1=Louise|title=Louis Pasteur and the Hidden World of Microbes|date=2001|publisher=Oxford University Press|location=New York|isbn=978-0-19-512227-5|page=15|url=https://books.google.com/books?id=qUHuafXKKBEC&pg=PA15}}</ref> Tháng 10 năm 1838, ông đến Paris nhưng dần trở nên nhớ nhà và quay về trong tháng 11.<ref>{{cite book|last1=Debré|first1=Patrice|translator-last=Forster|translator-first=Elborg|title=Louis Pasteur|date=2000|publisher=JHU Press|location=Baltimore|isbn=978-0-8018-6529-9|pages=11–12|url=https://books.google.com/books?id=RzOcl-FLw30C&pg=PA11}}</ref>
 
Trong những năm đầu Pasteur là một học sinh trung bình và không quá chú tâm vào việc học bởi sở thích câu cá và phác họa.<ref name="catholic intro"/> Ông đã vẽ nhiều bức phấn màu cùng chân dung của cha mẹ, bạn bè, hàng xóm.<ref>{{cite book|last1=Debré|first1=Patrice|translator-last=Forster|translator-first=Elborg|title=Louis Pasteur|date=2000|publisher=JHU Press|location=Baltimore|isbn=978-0-8018-6529-9|pages=12–13|url=https://books.google.com/books?id=RzOcl-FLw30C&pg=PA12}}</ref> Pasteur học trung học tại Collège d'Arbois.<ref>{{cite book|last1=Robbins|first1=Louise|title=Louis Pasteur and the Hidden World of Microbes|date=2001|publisher=Oxford University Press|location=New York|isbn=978-0-19-512227-5|page=15|url=https://books.google.com/books?id=qUHuafXKKBEC&pg=PA15}}</ref> Tháng 10 năm 1838, ông đến Paris nhưng dần trở nên nhớ nhà và quay về trong tháng 11.<ref>{{cite book|last1=Debré|first1=Patrice|translator-last=Forster|translator-first=Elborg|title=Louis Pasteur|date=2000|publisher=JHU Press|location=Baltimore|isbn=978-0-8018-6529-9|pages=11–12|url=https://books.google.com/books?id=RzOcl-FLw30C&pg=PA11}}</ref>
Dòng 103: Dòng 103:
  
 
==== Bệnh dại ====
 
==== Bệnh dại ====
Pasteur tạo ra vắc-xin phòng [[bệnh dại]] đầu tiên bằng cách nuôi virus trong thỏ rồi để khô mô thần kinh bị tác động nhằm làm yếu virus.<ref name=Schwartz /><ref name="wood">{{cite journal|last1=Wood|first1=Margaret E.|title=Biting Back|url=https://www.sciencehistory.org/distillations/magazine/biting-back|journal=Chemical Heritage Magazine|volume=28|number=2|page=7|access-date=March 20, 2018|date=2016-06-03}}</ref> Vắc-xin dại ban đầu do [[Emile Roux]], bác sĩ người Pháp và đồng sự của Pasteur, tạo ra. Roux đã áp dụng phương pháp này và tạo ra một vắc-xin bất hoạt.<ref name=Ligon /> Vắc-xin được thử nghiệm trên 50 con chó trước lần thử đầu tiên trên người.<ref>{{cite book|first1= Sue Vander|last1=Hook |title= Louis Pasteur: Groundbreaking Chemist & Biologist |publisher= ABDO|url= https://archive.org/details/louispasteurgrou0000vand|url-access= registration|year=2011 |page=[https://archive.org/details/louispasteurgrou0000vand/page/8 8]|isbn=978-1-61714-783-8 }}</ref><ref>{{cite web|last1=Corole D|first1=Bos|title=Louis Pasteur and the Rabies Virus – Louis Pasteur Meets Joseph Meister|url=https://www.awesomestories.com/asset/view/LOUIS-PASTEUR-MEETS-JOSEPH-MEISTER-Louis-Pasteur-and-the-Rabies-Virus|publisher=Awesome Stories|access-date=November 22, 2014|year=2014}}</ref> Cậu bé 9 tuổi [[Joseph Meister]] là người đầu tiên nhận vắc-xin vào ngày 6 tháng 7 năm 1885 sau khi bị một con chó dại tấn công nghiêm trọng.<ref name="cohn"/><ref name="wood"/> Việc làm này mang lại một số rủi ro cho Pasteur vì ông không phải bác sĩ được cấp phép và có thể bị truy tố vì chữa cho cậu bé.<ref name=van/> Sau khi bàn bạc với các bác sĩ, Pasteur quyết định tiến hành điều trị.<ref name=Wasik /> Trong vòng 11 ngày, Meister nhận 13 mũi tiêm, mỗi lần sử dụng virus đã bị làm yếu trong thời gian ngắn hơn.<ref name=Jackson /> Ba tháng sau Pasteur kiểm tra Meister và thấy sức khỏe cậu bé ổn.<ref name=Wasik /><ref name=trueman>{{cite web| author= Trueman C|title= Louis Pasteur| url= http://www.historylearningsite.co.uk/louis_pasteur.htm |work= HistoryLearningSite.co.uk |access-date= July 3, 2013}}</ref> Pasteur được ca ngợi là anh hùng và không vướng mắc vấn đề pháp lý.<ref name=van/> Sổ tay phòng thí nghiệm cho thấy Pasteur đã chữa cho hai người trước Meister, một người sống sót nhưng có thể thực chất không bị dại còn người kia chết vì dại.<ref name=Jackson /><ref>{{cite book|editor1-last=Artenstein|editor1-first=Andrew W.|title=Vaccines: A Biography|date=2009|publisher=Springer|isbn=978-1-4419-1108-7|page=79|url=https://books.google.com/books?id=ewdL8ilILZAC&pg=PA79}}</ref> Vào ngày 20 tháng 10 năm 1885 Pasteur bắt đầu chữa cho Jean-Baptiste Jupille và kết quả thành công.<ref name=Jackson /> Trong năm 1885, bốn trẻ em từ Mỹ cùng những người khác đã đến phòng thí nghiệm của Pasteur để được tiêm phòng.<ref name=Wasik /> Trong năm 1886 ông chữa cho 350 người, trong đó chỉ một người phát bệnh.<ref name=Jackson /> Thành công trong điều trị bệnh dại đã đặt nền móng cho việc sản xuất nhiều loại vắc-xin khác. Viện Pasteur đầu tiên cũng được xây trên cơ sở thành tựu này.<ref name="cohn"/>
+
Pasteur tạo ra vắc-xin phòng [[bệnh dại]] đầu tiên bằng cách nuôi virus trong thỏ rồi để khô mô thần kinh bị tác động nhằm làm yếu virus.<ref name=Schwartz /><ref name="wood">{{cite journal|last1=Wood|first1=Margaret E.|title=Biting Back|url=https://www.sciencehistory.org/distillations/magazine/biting-back|journal=Chemical Heritage Magazine|volume=28|number=2|page=7|access-date=March 20, 2018|date=2016-06-03}}</ref> Vắc-xin dại ban đầu do [[Emile Roux]], bác sĩ người Pháp và đồng sự của Pasteur, tạo ra. Roux đã áp dụng phương pháp này và tạo ra một vắc-xin bất hoạt.<ref name=Ligon /> Vắc-xin được thử nghiệm trên 50 con chó trước lần thử đầu tiên trên người.<ref>{{cite book|first1= Sue Vander|last1=Hook |title= Louis Pasteur: Groundbreaking Chemist & Biologist |publisher= ABDO|url= https://archive.org/details/louispasteurgrou0000vand|url-access= registration|year=2011 |page=[https://archive.org/details/louispasteurgrou0000vand/page/8 8]|isbn=978-1-61714-783-8 }}</ref><ref>{{cite web|last1=Corole D|first1=Bos|title=Louis Pasteur and the Rabies Virus – Louis Pasteur Meets Joseph Meister|url=https://www.awesomestories.com/asset/view/LOUIS-PASTEUR-MEETS-JOSEPH-MEISTER-Louis-Pasteur-and-the-Rabies-Virus|publisher=Awesome Stories|access-date=November 22, 2014|year=2014}}</ref> Cậu bé 9 tuổi [[Joseph Meister]] là người đầu tiên nhận vắc-xin vào ngày 6 tháng 7 năm 1885 sau khi bị một con chó dại tấn công nghiêm trọng.<ref name="cohn"/><ref name="wood"/> Việc làm này mang lại một số rủi ro cho Pasteur vì ông không phải bác sĩ được cấp phép và có thể bị truy tố vì chữa cho cậu bé.<ref name=van/> Sau khi bàn bạc với các bác sĩ, Pasteur quyết định tiến hành điều trị.<ref name=Wasik /> Trong vòng 11 ngày, Meister nhận 13 mũi tiêm, mỗi lần sử dụng virus đã bị làm yếu trong thời gian ngắn hơn.<ref name=Jackson /> Ba tháng sau Pasteur kiểm tra Meister và thấy sức khỏe cậu bé ổn.<ref name=Wasik /><ref name=trueman>{{cite web| author= Trueman C|title= Louis Pasteur| url= http://www.historylearningsite.co.uk/louis_pasteur.htm |work= HistoryLearningSite.co.uk |access-date= July 3, 2013}}</ref> Pasteur được ca ngợi là anh hùng và không vướng mắc vấn đề pháp lý.<ref name=van>{{cite book|first1= Sue Vander|last1=Hook|title= Louis Pasteur: Groundbreaking Chemist & Biologist |url= https://archive.org/details/louispasteurgrou0000vand|url-access= registration|year=2011 |pages=[https://archive.org/details/louispasteurgrou0000vand/page/8 8]–112 |publisher= ABDO Publishing Company|location=Minnesota|isbn =978-1-61758-941-6}}</ref> Sổ tay phòng thí nghiệm cho thấy Pasteur đã chữa cho hai người trước Meister, một người sống sót nhưng có thể thực chất không bị dại còn người kia chết vì dại.<ref name=Jackson /><ref>{{cite book|editor1-last=Artenstein|editor1-first=Andrew W.|title=Vaccines: A Biography|date=2009|publisher=Springer|isbn=978-1-4419-1108-7|page=79|url=https://books.google.com/books?id=ewdL8ilILZAC&pg=PA79}}</ref> Vào ngày 20 tháng 10 năm 1885 Pasteur bắt đầu chữa cho Jean-Baptiste Jupille và kết quả thành công.<ref name=Jackson /> Trong năm 1885, bốn trẻ em từ Mỹ cùng những người khác đã đến phòng thí nghiệm của Pasteur để được tiêm phòng.<ref name=Wasik /> Trong năm 1886 ông chữa cho 350 người, trong đó chỉ một người phát bệnh.<ref name=Jackson /> Thành công trong điều trị bệnh dại đã đặt nền móng cho việc sản xuất nhiều loại vắc-xin khác. Viện Pasteur đầu tiên cũng được xây trên cơ sở thành tựu này.<ref name="cohn"/>
  
 
== Tranh cãi ==
 
== Tranh cãi ==
Dòng 119: Dòng 119:
  
 
Meister không bao giờ biểu hiện triệu chứng của bệnh dại<ref name=Jackson /> nhưng tiêm chủng không được chứng minh là lý do. Một nguồn ước đoán xác suất Meister bị dại là 10%.<ref name=Giese />
 
Meister không bao giờ biểu hiện triệu chứng của bệnh dại<ref name=Jackson /> nhưng tiêm chủng không được chứng minh là lý do. Một nguồn ước đoán xác suất Meister bị dại là 10%.<ref name=Giese />
 +
 +
== Qua đời ==
 +
Vào năm 1868 Pasteur bị đột quỵ nặng làm liệt nửa người bên trái nhưng ông đã bình phục.<ref>{{cite book|last1=Vallery-Radot|first1=René|translator-last=Devonshire|translator-first=R. L.|title=The Life of Pasteur|date=1919|publisher=Constable & Company|location=London|pages=159–168|url=https://archive.org/stream/in.ernet.dli.2015.173907/2015.173907.The-Life-Of-Pasteur#page/n179/mode/2up}}</ref> Đến năm 1894 chứng [[urê huyết]] khiến sức khỏe ông giảm sút nghiêm trọng.<ref>{{cite book|last1=Debré|first1=Patrice|translator-last=Forster|translator-first=Elborg|title=Louis Pasteur|date=2000|publisher=JHU Press|location=Baltimore|isbn=978-0-8018-6529-9|pages=512}}</ref><ref>{{cite book|last1=Keim|first1=Albert|last2=Lumet|first2=Louis|title=Louis Pasteur|date=1914|publisher=Frederick A. Stokes Company|page=206|url=https://archive.org/stream/louispasteur00keim#page/206/mode/2up}}</ref><ref>{{cite book|last1=Vallery-Radot|first1=René|translator-last=Devonshire|translator-first=R. L.|title=The Life of Pasteur|date=1919|publisher=Constable & Company|location=London|page=458|url=https://archive.org/stream/in.ernet.dli.2015.173907/2015.173907.The-Life-Of-Pasteur#page/n477/mode/2up}}</ref> Lần này ông đã không thể bình phục và qua đời vào ngày 28 tháng 9 năm 1895 gần Paris.<ref name="cohn"/> Ông được tổ chức [[quốc tang]] và chôn tại [[Nhà thờ Đức Bà]] nhưng di hài ông đã được cải táng ở Viện Pasteur Paris,<ref>{{cite book|last1=Frankland|first1=Percy|title=Pasteur|date=1901|publisher=Cassell and Company|pages=217–219|url=https://archive.org/stream/pasteur00frangoog#page/n219/mode/2up}}</ref> trong một căn hầm chứa những bức tranh khảm Byzantine mô tả thành tựu của ông.<ref>{{Cite journal| last = Campbell| first = D M| title = The Pasteur Institute of Paris| journal = American Journal of Veterinary Medicine| volume = 10| issue = 1| pages = 29–31| date = January 1915| url = https://books.google.com/books?id=u8FUAAAAMAAJ| access-date = February 8, 2010}}</ref>
  
 
== Tham khảo ==
 
== Tham khảo ==
 
{{Reflist}}
 
{{Reflist}}

Bản hiện tại lúc 16:09, ngày 27 tháng 1 năm 2021

Louis Pasteur
Louis Pasteur, foto av Paul Nadar, Crisco edit.jpg
Ảnh Nadar chụp
Sinh27 tháng 12 năm 1822
Dole, Jura, Pháp
Mất28 tháng 9 năm 1895 (72 tuổi)
Quốc tịchPháp
Trường học
Được biết đến vìTạo ra vắc-xin bệnh dại đầu tiên
Vắc-xin bệnh tả[1]
Vắc-xin bệnh than
Diệt khuẩn Pasteur
Giải thưởng
Sự nghiệp khoa học
Lĩnh vực
Tổ chức
Học trò nổi bậtCharles Friedel[4]
Chữ ký
Louis Pasteur Signature.svg

Louis Pasteur (27 tháng 12 năm 1822 – 28 tháng 9 năm 1895) là nhà sinh học, vi sinh học, hóa học người Pháp lừng danh vì những phát hiện về nguyên lý vắc-xin, lên men, và diệt khuẩn Pasteur. Các phát hiện của ông đã tạo nên bước đột phát trong việc tìm hiểu căn nguyên và ngăn ngừa bệnh tật, đồng thời cứu sống rất nhiều sinh mạng. Ông làm giảm tỷ lệ tử vong do sốt hậu sản, tạo ra vắc-xin phòng dạithan đầu tiên. Thuyết mầm bệnh và những ứng dụng của nó trong y học lâm sàng nhận được sự ủng hộ cũng nhờ những khám phá của ông. Pasteur nổi tiếng nhất vì đã phát minh ra kỹ thuật xử lý sữa và rượu vang để ngăn nhiễm khuẩn mà nay gọi là diệt khuẩn Pasteur. Cùng với Ferdinand CohnRobert Koch, Pasteur được xem là một trong những nhà sáng lập của vi trùng học và "cha đẻ của vi sinh vật học".

Pasteur phản bác thuyết tự sinh; ông làm thí nghiệm chỉ ra rằng không có sự xâm nhiễm, vi sinh vật không thể sinh sôi. Dưới sự bảo trợ của Viện Hàn lâm Khoa học Pháp, ông đã chứng minh trong bình kín và tiệt trùng không xảy ra hiện tượng, còn trong bình tiệt trùng nhưng hở thì vi sinh vật có thể sinh trưởng.[5] Tuy không phải là người đầu tiên đề xuất thuyết mầm bệnh song các thí nghiệm của Pasteur đã chỉ ra tính đúng đắn của nó và thuyết phục được hầu hết châu Âu. Hiện ông được xem là một trong những cha đẻ của lý thuyết này.[6] Pasteur còn có những khám phá quan trọng trong hóa học, nổi bật nhất là tính bất đối xứng của những tinh thể nhất định và raxem hóa. Vào đầu sự nghiệp, nghiên cứu về tartaric acid đã mang đến những lời giải đầu tiên về đồng phân quang học. Công trình của ông dẫn hướng đến hiểu biết hiện tại về nguyên lý cơ bản trong cấu trúc của hợp chất hữu cơ.

Pasteur là giám đốc của Viện Pasteur thành lập năm 1887 đến khi qua đời. Thi thể ông được chôn trong căn hầm bên dưới viện. Tuy có nhiều đóng góp to lớn song danh tiếng của Pasteur lại đi kèm với những tranh cãi. Việc phân tích lại cuốn sổ tay cá nhân tiết lộ ông đã gian dối nhằm đánh bại địch thủ.[7][8]

Thời trẻ và giáo dục[sửa]

Căn nhà ở Dole nơi Pasteur sinh ra

Louis Pasteur sinh ngày 27 tháng 12 năm 1822 ở Dole, Jura, Pháp trong một gia đình Công giáo nghèo làm nghề thuộc da.[9] Ông là con thứ ba của Jean-Joseph Pasteur và Jeanne-Etiennette Roqui. Gia đình họ lần lượt chuyển đến Marnoz năm 1826 rồi Arbois năm 1827.[10][11] Pasteur bắt đầu học tiểu học vào năm 1831.[12]

Trong những năm đầu Pasteur là một học sinh trung bình và không quá chú tâm vào việc học bởi sở thích câu cá và phác họa.[9] Ông đã vẽ nhiều bức phấn màu cùng chân dung của cha mẹ, bạn bè, hàng xóm.[13] Pasteur học trung học tại Collège d'Arbois.[14] Tháng 10 năm 1838, ông đến Paris nhưng dần trở nên nhớ nhà và quay về trong tháng 11.[15]

Vào năm 1839 Pasteur vào trường Collège Royal tại Besançon để học triết học và một năm sau giành học vị BLitt.[16] Ông được bổ nhiệm làm trợ giáo tại cao đẳng Besançon trong khi tiếp tục theo đuổi học vị với chuyên ngành toán học.[17] Ông đã không qua được bài kiểm tra đầu tiên vào năm 1841. Một năm sau ông đạt học vị baccalauréat scientifique (khoa học tổng hợp) từ Dijon nhưng với điểm số tầm thường ở môn hóa.[18]

Vào năm 1842 Pasteur tham dự kỳ thi đầu vào của École Normale Supérieure.[19] Mặc dù vượt qua những bài kiểm tra đầu tiên nhưng do thứ hạng thấp nên ông đã quyết định dừng và cố gắng vào năm sau.[20] Ông quay lại Pension Barbet để chuẩn bị cho kỳ thi, bên cạnh đó tham dự các lớp học tại Lycée Saint-Louis và bài giảng của Jean-Baptiste Dumas tại Sorbonne.[21] Vào năm 1843 ông hoàn thành bài kiểm tra với thứ hạng cao và gia nhập École Normale Supérieure.[22] Hai năm sau ông nhận học vị licencié ès sciences.[23] Sang năm 1846 ông được bổ nhiệm làm giảng viên vật lý tại Collège de Tournon (nay là Lycée Gabriel-Faure) ở Ardèche. Tuy nhiên nhà hóa học Antoine Jérôme Balard lại muốn ông quay về École Normale Supérieure làm trợ lý phòng thí nghiệm.[24] Ông chấp nhận đề nghị của Balard đồng thời bắt đầu nghiên cứu về tinh thể học. Vào năm 1847 ông đệ trình hai luận án, một trong hóa học và còn lại trong vật lý.[23][25]

Sau một thời gian ngắn làm giảng viên vật lý tại Dijon trong năm 1848, Pasteur đã trở thành giảng viên hóa học tại Đại học Strasbourg.[26] Ở Strasbourg, ông đã gặp và theo đuổi Marie Laurent, con gái hiệu trưởng vào năm 1849. Hai người kết hôn vào ngày 29 tháng 5 năm đó[27] và có với nhau năm người con nhưng chỉ hai sống sót đến tuổi trưởng thành,[28] ba người kia chết vì thương hàn.

Nghiên cứu[sửa]

Sự lên men và thuyết mầm bệnh[sửa]

Pasteur có động lực tìm hiểu về lên men khi đang làm việc tại Lille. Vào năm 1856 M. Bigot, một nhà sản xuất rượu địa phương có con là học trò của Pasteur, xin lời khuyên của Pasteur về vấn đề tạo ra rượu củ dền và làm chua.[29][30]

Pasteur còn viết về lên men rượu[31] và công bố bản đầy đủ năm 1858.[32][33] Jöns Jacob BerzeliusJustus von Liebig từng đề xuất lý thuyết rằng sự lên men là do phân hủy gây nên. Pasteur đã chứng minh lý thuyết này là không đúng và men mới là nguyên nhân giúp tạo ra rượu từ đường.[34] Ông còn chứng minh khi một vi sinh vật khác làm bẩn rượu vang, lactic acid được sinh ra khiến rượu có vị chua.[30] Vào năm 1861 Pasteur quan sát thấy đường lên men ít hơn khi men tiếp xúc với không khí.[34] Tỷ lệ lên men thấp trong môi trường oxy trở nên được biết đến như hiệu ứng Pasteur.[35]

Pasteur làm việc trong phòng thí nghiệm

Nghiên cứu của Pasteur còn chỉ ra sự sinh sôi của vi sinh vật là nguyên nhân làm hỏng đồ uống như bia, rượu và sữa. Căn cứ vào đó, ông đã phát minh ra một phương pháp đó là đun nóng chất lỏng như sữa ở nhiệt độ 60 đến 100 °C.[36] Cách làm này tiêu diệt hầu hết vi khuẩn và mốc tồn tại sẵn trong chất lỏng. Pasteur và Claude Bernard hoàn thành những thử nghiệm trên máu và nước tiểu vào ngày 20 tháng 4 năm 1862.[37] Ông được cấp bằng sáng chế cho quy trình xử lý "bệnh" của rượu vang vào năm 1865.[36] Từ đó phương pháp này được gọi là diệt khuẩn Pasteur và sớm được áp dụng với bia và sữa.[38]

Việc đồ uống bị hỏng khiến Pasteur nảy sinh ý tưởng rằng vi sinh vật tác động đến động vật và con người gây ra bệnh. Ông đề xuất ngăn chặn vi sinh vật xâm nhập cơ thể người dẫn đến việc Joseph Lister phát triển những phương pháp sát khuẩn trong phẫu thuật.[39]

Vào đầu thế kỷ 19, Agostino Bassi đã chứng minh bệnh tằm vôi do một loại nấm tác động đến tằm gây ra.[40] Kể từ năm 1853 hai căn bệnh được gọi là pébrineflacherie đã ảnh hưởng đến số lượng lớn tằm ở miền nam nước Pháp. Đến năm 1865 chúng đã gây thiệt hại khổng lồ cho nông dân. Vào năm 1865 Pasteur đến Alès và có quãng thời gian năm năm làm việc ở đây.[41][42]

Tằm mắc pébrine bị các hạt (tiểu thể) bao phủ khắp người. Trong ba năm đầu tiên, Pasteur tưởng rằng những hạt này là triệu chứng của bệnh. Vào năm 1870 ông kết luận rằng chúng là nguyên nhân gây bệnh (hiện tác nhân được biết là một loại microsporidia).[40] Pasteur còn chỉ ra bệnh này có tính di truyền.[43] Ông xây dựng một quy trình giúp ngăn ngừa bệnh đó là nghiền nát cơ thể bướm cái sau đẻ trứng rồi kiểm tra dưới kính hiển vi, nếu quan sát thấy các hạt thì tiêu hủy trứng.[44][43] Pasteur kết luận vi khuẩn gây ra flacherie nhưng bệnh này hiện được cho là do virus.[40] Flacherie lây lan có thể là do ngẫu nhiên hoặc di truyền. Đảm bảo vệ sinh có thể là cách để ngăn flacherie lây ngẫu nhiên. Bướm đêm có khoang tiêu hóa không chứa vi sinh vật gây bệnh được chọn để đẻ trứng, ngăn bệnh lây theo đường di truyền.[45]

Thuyết tự sinh[sửa]

Bình thót cổ (cổ ngỗng) Pasteur sử dụng
Thí nghiệm của Pasteur minh họa thực tế chất lỏng bị hư hỏng do các hạt trong không khí chứ không phải do không khí, là một phần chứng cứ quan trọng ủng hộ thuyết mầm bệnh.

Ý tưởng và phát hiện của Pasteur chống lại khái niệm thuyết tự sinh đang thịnh hành. Félix Archimède Pouchet, giám đốc Bảo tàng Lịch sử Tự nhiên Rouen, đã chỉ trích Pasteur dữ dội. Để giải quyết tranh cãi giữa các nhà khoa học xuất chúng, Viện Hàn lâm Khoa học Pháp đề nghị trao Giải Alhumbert kèm theo 2.500 frăng cho ai có thể chứng minh học thuyết đúng hoặc sai bằng thực nghiệm.[46][47][48]

Pouchet phát biểu không khí mọi nơi có thể khiến sinh vật sống tự phát sinh trong chất lỏng.[49] Vào cuối những năm 1850, ông đã thực hiện những thí nghiệm và khẳng định đó là bằng chứng về sự tự sinh.[50][46] Francesco RediLazzaro Spallanzani đã đưa ra một số chứng cứ bác bỏ thuyết này trong thế kỷ 17 và 18. Thí nghiệm của Spallanzani năm 1765 gợi ý không khí làm nước dùng nhiễm khuẩn. Vào thập niên 1860 Pasteur làm lại thí nghiệm của Spallanzani nhưng Pouchet báo cáo một kết quả khác khi sử dụng loại nước dùng khác.[41]

Pasteur tiến hành một số thí nghiệm nhằm bác bỏ thuyết tự sinh. Ông cho chất lỏng sôi vào bình, để khí nóng chui vào rồi đóng kín, không sinh vật nào sinh sôi trong đó.[50] Trong một thí nghiệm khác, khi ông mở những bình chứa chất lỏng đun sôi, bụi bay vào khiến sinh vật sinh trưởng trong một vài bình. Số bình thấy sinh vật ít hơn tại điểm cao hơn, chỉ ra không khí trên cao ít bụi và ít sinh vật hơn.[30][51] Pasteur còn dùng bình thót cổ chứa chất lỏng có thể lên men. Không khí được cho lọt vào bình qua một ống cong dài, thứ chặn bụi lại. Không thấy hiện tượng gì trừ khi làm nghiêng bình để chất lỏng chạm vào phần cổ dính bụi. Điều này chỉ ra sinh vật sống đến từ bên ngoài, từ bụi, chứ không phải tự sinh ra trong chất lỏng hoặc không khí sạch.[30][52]

Nhờ một số thí nghiệm quan trọng nhất bác bỏ thuyết tự sinh, Pasteur đã giành giải Alhumbert năm 1862.[50] Ông kết luận:[30][42]

Thuyết tự sinh sẽ không thể phục hồi từ đòn đánh chí tử của thí nghiệm đơn giản này. Không ở hoàn cảnh nào có thể xác nhận những sinh vật nhỏ bé bước vào thế giới mà không có mầm mống, không có những bản thể tương tự chúng.

Miễn dịch học và chủng ngừa[sửa]

Tả gà[sửa]

Tả gà là một trong những căn bệnh thu hút sự quan tâm của Pasteur. Ông nhận mẻ cấy vi khuẩn từ Jean Joseph Henri Toussaint và nuôi chúng trong nước xuýt gà.[53] Trong quá trình nghiên cứu, một mẻ vi khuẩn đã bị hỏng và không thể gây bệnh ở một số con gà là đối tượng bị ông cố tình làm cho nhiễm bệnh. Khi sử dụng lại những con gà khỏe mạnh này, Pasteur phát hiện ra chúng không thể bị nhiễm vi khuẩn, kể cả vi khuẩn mới. Vi khuẩn suy yếu chỉ gây ra những triệu chứng nhẹ và đã giúp những con gà miễn nhiễm căn bệnh.[9][6]

Vào năm 1879 phụ tá của Pasteur là Charles Chamberland được hướng dẫn tiêm vi khuẩn cho gà trong thời gian Pasteur đi du lịch. Chamberland có lẽ do vội vã với kỳ nghỉ của mình nên đã không thực hiện. Khi quay về, những mẻ cấy đã để được một tháng khiến những con gà không khỏe, nhưng rồi chúng lại hồi phục hoàn toàn thay vì chết như thường lệ. Chamberland nghĩ chắc có vấn đề gì đó và muốn vứt mẻ cấy mà dường như bị hỏng đi nhưng Pasteur đã ngăn lại.[54] Ông tiêm vi khuẩn độc vào những con gà và chúng sống sót, từ đó ông kết luận những con gà này đã miễn nhiễm căn bệnh.[55]

Tháng 12 năm 1879, Pasteur sử dụng vi khuẩn suy yếu để tiêm vào gà và kết quả là chúng sống sót. Tiếp theo, ông tiêm vào những con gà này một chủng vi khuẩn độc nhưng chúng không bị bệnh. Vào năm 1880, Pasteur trình bày kết quả của mình lên Viện Hàn lâm Khoa học Pháp, nêu rằng vi khuẩn bị suy yếu bởi tiếp xúc với oxy.[53]

Bệnh than[sửa]

Louis Pasteur trong phòng thí nghiệm, tranh Edelfeldt vẽ năm 1885

Trong thập niên 1870 Pasteur áp dụng phương pháp tạo miễn dịch này với bệnh than đang ảnh hưởng đến bò và làm gợi lên mối quan tâm đến việc chống lại những căn bệnh khác. Ông nuôi vi khuẩn lấy từ máu của động vật mắc bệnh. Khi ông tiêm vi khuẩn vào động vật khác, bệnh than xảy ra chứng tỏ vi khuẩn là nguyên nhân gây bệnh.[56] Nhiều con bò đã mắc bệnh than và chết trên những "cánh đồng bị nguyền rủa".[42] Pasteur nghe nói cừu chết vì bệnh than được chôn ở cánh đồng. Ông nghĩ rằng giun đất có thể mang vi khuẩn lên trên mặt đất. Việc tìm thấy vi khuẩn than trong phân của giun đất đã chứng minh cho suy đoán của ông.[42] Ông bảo những người nông dân không chôn động vật chết ngoài đồng.[57]

Vào năm 1880, Jean Joseph Henri Toussaint, một bác sĩ thú y và đối thủ của Pasteur, đã sử dụng carbolic acid để giết trực khuẩn than và thử nghiệm vắc-xin trên cừu. Pasteur nghĩ rằng kiểu vắc-xin bất hoạt này sẽ không có tác dụng vì ông tin cơ chế là vi khuẩn suy yếu giành hết dinh dưỡng mà vi khuẩn bình thường cần để sinh sôi. Ông nghĩ để vi khuẩn tiếp xúc với oxy sẽ khiến chúng suy giảm độc lực.[58] Sang đầu năm 1881, Pasteur khám phá ra trực khuẩn than sinh trưởng ở khoảng 42 °C không thể sinh bào tử[59] và trình bày phương pháp này trong một bài phát biểu trước Viện Hàn lâm Khoa học Pháp vào ngày 28 tháng 2.[60] Cũng trong năm đó bác sĩ thú y Hippolyte Rossignol đề nghị Hội Nông nghiệp Melun tiến hành một thí nghiệm để kiểm tra vắc-xin của Pasteur. Pasteur đồng tình và thí nghiệm tiến hành tại Pouilly-le-Fort trên cừu, dê và bò đã thành công. Pasteur không tiết lộ rõ ràng làm thế nào mà ông có được vắc-xin sử dụng tại Pouilly-le-Fort.[61][59] Sổ tay phòng thí nghiệm của Pasteur mà hiện ở Thư viện Quốc gia Pháp chỉ ra ông đã dùng nhiệt và kali dicromat, tương tự phương pháp của Toussaint.[62][63][64]

Việc thể bệnh yếu tạo miễn dịch chống thể độc hại không phải mới, con người đã biết điều này từ lâu qua bệnh đậu mùa. Tiêm mầm bệnh đậu mùa (chủng đậu) dẫn đến một thể bệnh nhẹ hơn nhiều và tỷ lệ tử vong rất thấp so với bệnh mắc tự nhiên.[65] Edward Jenner cũng nghiên cứu chủng ngừa dùng bệnh đậu bò để tạo miễn dịch chéo với đậu mùa vào cuối thập niên 1790 và đến đầu thập niên 1800 chủng ngừa đã phổ biến hầu khắp châu Âu.[66]

Chủng ngừa tả gà hay bệnh than khác đậu mùa ở chỗ là những sinh vật gây bệnh được làm yếu nhân tạo, vậy nên không cần phải đi tìm thể bệnh yếu ngoài tự nhiên.[62] Khám phá này có tính cách mạng trong lĩnh vực bệnh truyền nhiễm và Pasteur đã đặt cho những dạng bệnh bị làm yếu nhân tạo này tên chung là vắc-xin nhằm vinh danh khám phá của Jenner.[67]

Vào năm 1876 Robert Koch chứng minh Bacillus anthracis là tác nhân gây bệnh than.[68] Trong những tài liệu công bố giai đoạn 1878-1880, Pasteur chỉ nhắc đến công trình của Koch ở chú thích cuối trang. Koch gặp Pasteur tại Đại hội Y khoa Quốc tế lần thứ bảy năm 1881. Vài tháng sau, Koch viết rằng Pasteur đã dùng những mẻ cấy không sạch và mắc lỗi. Vào năm 1882, Pasteur đáp trả Koch trong một bài phát biểu mà vì thế Koch đã phản ứng gay gắt.[6] Koch nói Pasteur thử nghiệm vắc-xin trên động vật không phù hợp và nghiên cứu của Pasteur không đúng khoa học.[30] Cùng năm Koch viết tiểu luận "Về Chủng ngừa Bệnh than" trong đó phản bác một số kết luận của Pasteur về bệnh than và chỉ trích Pasteur vì đã giấu kín phương pháp của mình, đi tới kết luận và sai lầm. Một năm sau Pasteur viết ông đã dùng những mẻ cấy chuẩn bị theo cách giống như những thí nghiệm lên men thành công của ông trước đó và rằng Koch đã hiểu sai những số liệu thống kê cũng như phớt lờ công trình về tằm của ông.[68]

Viêm quầng lợn[sửa]

Vào năm 1882 Pasteur cử trợ lý Louis Thuillier đến miền nam nước Pháp để tìm hiểu dịch viêm quầng lợn.[69] Thuillier xác định trực khuẩn gây bệnh vào tháng 3 năm 1883.[41] Pasteur và Thuillier làm tăng độc lực của vi khuẩn sau khi truyền nó qua chim bồ câu. Tiếp đến họ truyền vi khuẩn qua thỏ, làm yếu nó và thu được vắc-xin. Hai người đã mô tả không chính xác vi khuẩn có hình số tám. Vào năm 1884 Roux nhận dạng vi khuẩn có hình que.[70]

Bệnh dại[sửa]

Pasteur tạo ra vắc-xin phòng bệnh dại đầu tiên bằng cách nuôi virus trong thỏ rồi để khô mô thần kinh bị tác động nhằm làm yếu virus.[42][71] Vắc-xin dại ban đầu do Emile Roux, bác sĩ người Pháp và đồng sự của Pasteur, tạo ra. Roux đã áp dụng phương pháp này và tạo ra một vắc-xin bất hoạt.[30] Vắc-xin được thử nghiệm trên 50 con chó trước lần thử đầu tiên trên người.[72][73] Cậu bé 9 tuổi Joseph Meister là người đầu tiên nhận vắc-xin vào ngày 6 tháng 7 năm 1885 sau khi bị một con chó dại tấn công nghiêm trọng.[63][71] Việc làm này mang lại một số rủi ro cho Pasteur vì ông không phải bác sĩ được cấp phép và có thể bị truy tố vì chữa cho cậu bé.[74] Sau khi bàn bạc với các bác sĩ, Pasteur quyết định tiến hành điều trị.[75] Trong vòng 11 ngày, Meister nhận 13 mũi tiêm, mỗi lần sử dụng virus đã bị làm yếu trong thời gian ngắn hơn.[76] Ba tháng sau Pasteur kiểm tra Meister và thấy sức khỏe cậu bé ổn.[75][77] Pasteur được ca ngợi là anh hùng và không vướng mắc vấn đề pháp lý.[74] Sổ tay phòng thí nghiệm cho thấy Pasteur đã chữa cho hai người trước Meister, một người sống sót nhưng có thể thực chất không bị dại còn người kia chết vì dại.[76][78] Vào ngày 20 tháng 10 năm 1885 Pasteur bắt đầu chữa cho Jean-Baptiste Jupille và kết quả thành công.[76] Trong năm 1885, bốn trẻ em từ Mỹ cùng những người khác đã đến phòng thí nghiệm của Pasteur để được tiêm phòng.[75] Trong năm 1886 ông chữa cho 350 người, trong đó chỉ một người phát bệnh.[76] Thành công trong điều trị bệnh dại đã đặt nền móng cho việc sản xuất nhiều loại vắc-xin khác. Viện Pasteur đầu tiên cũng được xây trên cơ sở thành tựu này.[63]

Tranh cãi[sửa]

Vào năm 1878 Pasteur bảo với gia đình đừng bao giờ cho người nào xem sổ tay phòng thí nghiệm của mình. Gia đình ông nghe theo, tất cả tài liệu của Pasteur được lưu giữ và truyền đời một cách bí mật. Cuối cùng vào năm 1964 Pasteur Vallery-Radot, cháu trai và hậu duệ nam cuối cùng của Pasteur còn sống, đã tặng tài liệu cho thư viện quốc gia Pháp. Tuy nhiên trước khi Vallery-Radot qua đời năm 1971 tài liệu bị hạn chế sử dụng cho nghiên cứu lịch sử. Đến năm 1985 nó mới được đặt số danh mục.[79]

Vào năm 1995, một thế kỷ sau khi Pasteur qua đời, nhà sử học về khoa học Gerald L. Geison đã công bố cuốn The Private Science of Louis Pasteur trong đó phân tích sổ tay cá nhân của Pasteur. Geison phát biểu Pasteur đã có những diễn tả sai lệch và lừa dối trong đa số khám phá quan trọng của ông.[7][80] Max Perutz viết bài biện hộ cho Pasteur trên The New York Review of Books.[81] Sau khi xem xét thêm tài liệu của Pasteur, nhà miễn dịch học người Pháp Patrice Debré đã kết luận trong cuốn Louis Pasteur của mình rằng dù là thiên tài nhưng Pasteur vẫn có một số khuyết điểm.[82]

Vắc-xin bệnh than[sửa]

Pasteur công khai tuyên bố phát triển thành công vắc-xin bệnh than vào năm 1881.[77] Tuy nhiên người tạo ra vắc-xin đầu tiên là Jean Joseph Henri Toussaint. Toussaint phân lập vi khuẩn gây bệnh tả gà (sau này được đặt tên Pasteurella để vinh danh Pasteur) vào năm 1879 và đưa mẫu cho Pasteur, người đã sử dụng chúng cho những mục đích riêng.[83] Vào ngày 12 tháng 7 năm 1880 Toussaint đệ trình thành quả sử dụng vắc-xin sống phòng bệnh than ở chó và cừu lên Viện Hàn lâm Khoa học Pháp.[84] Vì lòng đố kỵ, Pasteur đã tranh giành khám phá bằng việc công khai trình bày phương pháp tạo miễn dịch tại Pouilly-le-Fort vào ngày 5 tháng 5 năm 1881.[85] Pasteur đã nói dối về cách thức chuẩn bị vắc-xin bệnh than dùng trong thí nghiệm tại Pouilly-le-Fort, thực chất ông dùng kali dicromat theo cách như của Toussaint.[7] Thử nghiệm quảng bá thành công và giúp Pasteur bán sản phẩm, thu về lợi ích và vinh quang.[85][86][87]

Đạo đức trong thí nghiệm[sửa]

Các thí nghiệm của Pasteur thường được viện dẫn là đi ngược lại y đức, nhất là lần tiêm phòng cho Meister. Ông không hề có kinh nghiệm hành nghề y và quan trọng hơn là thiếu giấy phép hành nghề này. Việc làm như vậy thường được xem là mối đe dọa nghiêm trọng đến danh tiếng của ông.[88][89] Émile Roux, cộng sự thân thiết nhất của Pasteur và có chứng chỉ nghề y, từ chối tham gia thử nghiệm lâm sàng có thể vì cho là nó không đúng đắn.[76] Mặc dù vậy Pasteur tiêm phòng cho Meister dưới sự giám sát chặt chẽ của các bác sĩ Jacques-Joseph GrancherAlfred Vulpian. Ông không được phép cầm bơm tiêm nhưng theo dõi toàn bộ quá trình.[75] Grancher là người thực hiện các mũi tiêm và ông đã biện hộ vấn đề này cho Pasteur trước Viện Hàn lâm Y học Quốc gia Pháp.[90]

Pasteur còn bị phê phán vì giấu kín phương pháp và không có những thử nghiệm tiền lâm sàng thích đáng trên động vật.[30] Ông nói việc giấu kín phương pháp là nhằm kiểm soát độ hiệu quả của nó. Về sau ông đã tiết lộ cách làm của mình với một nhóm nhỏ các nhà khoa học. Ông viết rằng đã tiêm phòng thành công cho 50 con chó dại trước khi áp dụng cho Meister.[91][92][93] Theo Geison, sổ tay phòng thí nghiệm của Pasteur cho thấy số lượng chó ông tiêm chỉ là 11.[30]

Meister không bao giờ biểu hiện triệu chứng của bệnh dại[76] nhưng tiêm chủng không được chứng minh là lý do. Một nguồn ước đoán xác suất Meister bị dại là 10%.[62]

Qua đời[sửa]

Vào năm 1868 Pasteur bị đột quỵ nặng làm liệt nửa người bên trái nhưng ông đã bình phục.[94] Đến năm 1894 chứng urê huyết khiến sức khỏe ông giảm sút nghiêm trọng.[95][96][97] Lần này ông đã không thể bình phục và qua đời vào ngày 28 tháng 9 năm 1895 gần Paris.[63] Ông được tổ chức quốc tang và chôn tại Nhà thờ Đức Bà nhưng di hài ông đã được cải táng ở Viện Pasteur Paris,[98] trong một căn hầm chứa những bức tranh khảm Byzantine mô tả thành tựu của ông.[99]

Tham khảo[sửa]

  1. "History of the Cholera Vaccine | Passport Health", www.passporthealthusa.com, truy cập ngày 25 tháng 12 năm 2020
  2. Fellows of the Royal Society, London: Royal Society, lưu trữ từ nguyên tác ngày 16 tháng 3 năm 2015
  3. II. Abdülhamid'in Fransız kimyagere yaptığı yardım ortaya çıktı, CNN Türk, truy cập ngày 29 tháng 12 năm 2016
  4. Asimov, Asimov's Biographical Encyclopedia of Science and Technology 2nd Revised edition
  5. Seckbach, Joseph (editor) (2004), Origins: Genesis, Evolution and Diversity of Life, Dordrecht, The Netherlands: Kluwer Academic Publishers, tr. 20, ISBN 978-1-4020-1813-8CS1 maint: extra text: authors list (link)
  6. a b c Ullmann, Agnes (tháng 8 năm 2007), "Pasteur-Koch: Distinctive Ways of Thinking about Infectious Diseases", Microbe, 2 (8): 383–387, lưu trữ từ nguyên tác ngày 10 tháng 5 năm 2016, truy cập ngày 12 tháng 12 năm 2007
  7. a b c Geison, Gerald L (1995), The Private Science of Louis Pasteur, Princeton, NJ: Princeton university press, ISBN 978-0-691-01552-1
  8. Anderson, C. (1993), "Pasteur Notebooks Reveal Deception", Science, 259 (5098): 1117, Bibcode:1993Sci...259.1117A, doi:10.1126/science.259.5098.1117-a, PMID 8438162
  9. a b c James J. Walsh (1913), "Louis Pasteur" , trong Herbermann, Charles (bt.), Catholic Encyclopedia, New York: Robert Appleton Company
  10. Debré, Patrice (2000), Louis Pasteur, dịch bởi Forster, Elborg, Baltimore: JHU Press, tr. 6–7, ISBN 978-0-8018-6529-9
  11. Robbins, Louise (2001), Louis Pasteur and the Hidden World of Microbes, New York: Oxford University Press, tr. 14, ISBN 978-0-19-512227-5
  12. Debré, Patrice (2000), Louis Pasteur, dịch bởi Forster, Elborg, Baltimore: JHU Press, tr. 8, ISBN 978-0-8018-6529-9
  13. Debré, Patrice (2000), Louis Pasteur, dịch bởi Forster, Elborg, Baltimore: JHU Press, tr. 12–13, ISBN 978-0-8018-6529-9
  14. Robbins, Louise (2001), Louis Pasteur and the Hidden World of Microbes, New York: Oxford University Press, tr. 15, ISBN 978-0-19-512227-5
  15. Debré, Patrice (2000), Louis Pasteur, dịch bởi Forster, Elborg, Baltimore: JHU Press, tr. 11–12, ISBN 978-0-8018-6529-9
  16. Keim, Albert; Lumet, Louis (1914), Louis Pasteur, Frederick A. Stokes Company, tr. 10, 12
  17. Debré, Patrice (2000), Louis Pasteur, dịch bởi Forster, Elborg, Baltimore: JHU Press, tr. 14, 17, ISBN 978-0-8018-6529-9
  18. Debré, Patrice (2000), Louis Pasteur, dịch bởi Forster, Elborg, Baltimore: JHU Press, tr. 19–20, ISBN 978-0-8018-6529-9
  19. Robbins, Louise (2001), Louis Pasteur and the Hidden World of Microbes, New York: Oxford University Press, tr. 18, ISBN 978-0-19-512227-5
  20. Debré, Patrice (2000), Louis Pasteur, dịch bởi Forster, Elborg, Baltimore: JHU Press, tr. 20–21, ISBN 978-0-8018-6529-9
  21. Keim, Albert; Lumet, Louis (1914), Louis Pasteur, Frederick A. Stokes Company, tr. 15–17
  22. Debré, Patrice (2000), Louis Pasteur, dịch bởi Forster, Elborg, Baltimore: JHU Press, tr. 23–24, ISBN 978-0-8018-6529-9
  23. a b Debré, Patrice (2000), Louis Pasteur, dịch bởi Forster, Elborg, Baltimore: JHU Press, tr. 502, ISBN 978-0-8018-6529-9
  24. Debré, Patrice (2000), Louis Pasteur, dịch bởi Forster, Elborg, Baltimore: JHU Press, tr. 29–30, ISBN 978-0-8018-6529-9
  25. Keim, Albert; Lumet, Louis (1914), Louis Pasteur, Frederick A. Stokes Company, tr. 28–29
  26. Keim, Albert; Lumet, Louis (1914), Louis Pasteur, Frederick A. Stokes Company, tr. 37–38
  27. Holmes, Samuel J. (1924), Louis Pasteur, Harcourt, Brace and company, tr. 34–36
  28. Robbins, Louise E. (2001), Louis Pasteur and the Hidden World of Microbes, Oxford University Press, tr. 56, ISBN 978-0-19-028404-6
  29. Vallery-Radot, René (1919), The Life of Pasteur, dịch bởi Devonshire, R. L., London: Constable & Company, tr. 79
  30. a b c d e f g h i Ligon, B. Lee (2002), "Biography: Louis Pasteur: A controversial figure in a debate on scientific ethics", Seminars in Pediatric Infectious Diseases, 13 (2): 134–141, doi:10.1053/spid.2002.125138, PMID 12122952
  31. Pasteur, Louis (1857), "Mémoire sur la fermentation alcoolique", Comptes Rendus Chimie (trong français), 45 (6): 1032–1036, PMC 2229983
  32. Pasteur, Louis (1858), "Nouveaux faits concernant l'histoire de la fermentation alcoolique", Comptes Rendus Chimie (trong français), 47: 1011–1013
  33. Pasteur, Louis (1858), "Nouveaux faits concernant l'histoire de la fermentation alcoolique", Annales de Chimie et de Physique, 3rd Series (trong français), 52: 404–418
  34. a b Barnett, James A.; Barnett, Linda (2011), Yeast Research : A Historical Overview, Washington, DC: ASM Press, ISBN 978-1-55581-516-5
  35. Zimmermann, F.K.; Entian, K.-D., bt. (1997), Yeast Sugar Metabolism, CRC Press, tr. 20–21, ISBN 978-1-56676-466-7
  36. a b Bowden, Mary Ellen; Crow, Amy Beth; Sullivan, Tracy (2003), Pharmaceutical achievers : the human face of pharmaceutical research, Philadelphia: Chemical Heritage Press, ISBN 978-0-941901-30-7
  37. Vallery-Radot, René (1919), The Life of Pasteur, dịch bởi Devonshire, R.L., London: Constable & Company, tr. 104
  38. Nelson, Bryn (2009), "The Lingering Heat over Pasteurized Milk", Chemical Heritage Magazine, 27 (1), truy cập ngày 20 tháng 3 năm 2018
  39. Hicks, Jesse, "A Fresh Breath", Chemical Heritage Magazine, lưu trữ từ nguyên tác ngày 11 tháng 6 năm 2016, truy cập ngày 27 tháng 1 năm 2015
  40. a b c Hatcher, Paul; Battey, Nick (2011), Biological Diversity: Exploiters and Exploited, John Wiley & Sons, tr. 88–89, 91, ISBN 978-0-470-97986-0
  41. a b c Berche, P. (2012), "Louis Pasteur, from crystals of life to vaccination", Clinical Microbiology and Infection, 18 (s5): 1–6, doi:10.1111/j.1469-0691.2012.03945.x, PMID 22882766
  42. a b c d e Schwartz, M. (2001), "The life and works of Louis Pasteur", Journal of Applied Microbiology, 91 (4): 597–601, doi:10.1046/j.1365-2672.2001.01495.x, PMID 11576293, S2CID 39020116
  43. a b Keim, Albert; Lumet, Louis (1914), Louis Pasteur, Frederick A. Stokes Company, tr. 87–88
  44. Vallery-Radot, René (1919), The Life of Pasteur, dịch bởi Devonshire, R. L., London: Constable & Company, tr. 141
  45. Vallery-Radot, René (1919), The Life of Pasteur, dịch bởi Devonshire, R. L., London: Constable & Company, tr. 156
  46. a b Magner, Lois N. (2002), History of the Life Sciences (lxb. 3), New York: Marcel Dekker, tr. 251–252, ISBN 978-0-203-91100-6
  47. Roll-Hansen, Nils (1979), "Experimental Method and Spontaneous Generation: The Controversy between Pasteur and Pouchet, 1859–64" (PDF), Journal of the History of Medicine and Allied Sciences, XXXIV (3): 273–292, doi:10.1093/jhmas/XXXIV.3.273, PMID 383780, S2CID 39800747
  48. Farley, J; Geison, GL (1974), "Science, politics and spontaneous generation in nineteenth-century France: the Pasteur-Pouchet debate", Bulletin of the History of Medicine, 48 (2): 161–198, PMID 4617616
  49. Keim, Albert; Lumet, Louis (1914), Louis Pasteur, Frederick A. Stokes Company, tr. 64
  50. a b c Porter, JR (1961), "Louis Pasteur: achievements and disappointments, 1861.", Bacteriological Reviews, 25 (4): 389–403, doi:10.1128/MMBR.25.4.389-403.1961, PMC 441122, PMID 14037390
  51. Vallery-Radot, René (1919), The Life of Pasteur, dịch bởi Devonshire, R. L., London: Constable & Company, tr. 96–98
  52. Keim, Albert; Lumet, Louis (1914), Louis Pasteur, Frederick A. Stokes Company, tr. 63–67
  53. a b Plotkin, Stanley A., bt. (2011), History of Vaccine Development, Springer, tr. 35–36, ISBN 978-1-4419-1339-5
  54. Dixon, Bernard (1980), "The hundred years of Louis Pasteur", New Scientist, Reed Business Information, no. 1221, tr. 30–32
  55. Artenstein, Andrew W., bt. (2009), Vaccines: A Biography, Springer, tr. 75, ISBN 978-1-4419-1108-7
  56. Keim, Albert; Lumet, Louis (1914), Louis Pasteur, Frederick A. Stokes Company, tr. 123–125
  57. Vallery-Radot, René (1919), The Life of Pasteur, dịch bởi Devonshire, R. L., London: Constable & Company, tr. 303–305
  58. Tizard, Ian (1998), "Grease, Anthraxgate, and Kennel Cough: A Revisionist History of Early Veterinary Vaccines", trong Schultz, Ronald D. (bt.), Veterinary Vaccines and Diagnostics, Academic Press, tr. 12–14, ISBN 978-0-08-052683-6
  59. a b Bazin, Hervé (2011), Vaccinations: a History: From Lady Montagu to Jenner and genetic engineering, John Libbey Eurotext, tr. 196–197, ISBN 978-2-7420-1344-9
  60. Pasteur, L.; Chamberland, C.; Roux, E. (1881), "Le vaccin de charbon", Comptes Rendus Hebdomadaires des Séances de l'Académie des Sciences (trong français), 92: 666–668
  61. Plotkin, Stanley A., bt. (2011), History of Vaccine Development, Springer, tr. 37–38, ISBN 978-1-4419-1339-5
  62. a b c Giese, Matthias, bt. (2013), Molecular Vaccines: From Prophylaxis to Therapy, 1, Springer, tr. 4, ISBN 978-3-7091-1419-3
  63. a b c d Cohn, David V (ngày 18 tháng 12 năm 2006), Pasteur, University of Louisville, truy cập ngày 2 tháng 12 năm 2007
  64. Loir, A (1938), "A l'ombre de Pasteur", Le mouvement sanitaire, tr. 18, 160
  65. Artenstein, Andrew W., bt. (2009), Vaccines: A Biography, Springer, tr. 10, ISBN 978-1-4419-1108-7
  66. Bazin, Hervé (2011), Vaccinations: a History: From Lady Montagu to Jenner and genetic engineering, John Libbey Eurotext, tr. 66–67, 82, ISBN 978-2-7420-1344-9
  67. Vallery-Radot, René (1919), The Life of Pasteur, dịch bởi Devonshire, R. L., London: Constable & Company, tr. 332
  68. a b De Paolo, Charles (2006), Epidemic Disease and Human Understanding: A Historical Analysis of Scientific and Other Writings, McFarland, tr. 103, 111–114, ISBN 978-0-7864-2506-8
  69. Plotkin, Stanley A., bt. (2011), History of Vaccine Development, Springer, tr. 39, ISBN 978-1-4419-1339-5
  70. Bazin, Hervé (2011), Vaccination: A History, John Libbey Eurotext, tr. 211, ISBN 978-2-7420-0775-2
  71. a b Wood, Margaret E. (ngày 3 tháng 6 năm 2016), "Biting Back", Chemical Heritage Magazine, 28 (2): 7, truy cập ngày 20 tháng 3 năm 2018
  72. Hook, Sue Vander (2011), Louis Pasteur: Groundbreaking Chemist & Biologist, ABDO, tr. 8, ISBN 978-1-61714-783-8
  73. Corole D, Bos (2014), Louis Pasteur and the Rabies Virus – Louis Pasteur Meets Joseph Meister, Awesome Stories, truy cập ngày 22 tháng 11 năm 2014
  74. a b Hook, Sue Vander (2011), Louis Pasteur: Groundbreaking Chemist & Biologist, Minnesota: ABDO Publishing Company, tr. 8–112, ISBN 978-1-61758-941-6
  75. a b c d Wasik, Bill; Murphy, Monica (2013), Rabid: A Cultural History of the World's Most Diabolical Virus, New York: Penguin Books, ISBN 978-1-101-58374-6
  76. a b c d e f Jackson, Alan C., bt. (2013), Rabies: Scientific Basis of the Disease and Its Management (lxb. 3rd), Amsterdam: Academic Press, tr. 3–6, ISBN 978-0-12-397230-9
  77. a b Trueman C, "Louis Pasteur", HistoryLearningSite.co.uk, truy cập ngày 3 tháng 7 năm 2013
  78. Artenstein, Andrew W., bt. (2009), Vaccines: A Biography, Springer, tr. 79, ISBN 978-1-4419-1108-7
  79. Geison, Gerald L. (2014), The Private Science of Louis Pasteur, Princeton University Press, tr. 3, ISBN 978-1-4008-6408-9
  80. Altman, Lawrence K (1995), "Revisionist history sees Pasteur as liar who stole rival's ideas", The New York Times on the Web, 16: C1, C3, PMID 11647062
  81. December 21, 1995 NY Review of Books [1], letters [2] [3]
  82. Debré, Patrice (2000), Louis Pasteur, Baltimore: Johns Hopkins University Press, ISBN 978-0-8018-6529-9
  83. Swabe, Joanna (2002), Animals, Disease and Human Society: Human-animal Relations and the Rise of Veterinary Medicine, Routledge, tr. 83, ISBN 978-1-134-67540-1
  84. Jones, Susan D. (2010), Death in a Small Package: A Short History of Anthrax, JHU Press, tr. 69, ISBN 978-1-4214-0252-9
  85. a b Chevallier-Jussiau, N (2010), "[Henry Toussaint and Louis Pasteur. Rivalry over a vaccine]" (PDF), Histoire des Sciences Médicales, 44 (1): 55–64, PMID 20527335
  86. Williams, E (2010), "The forgotten giants behind Louis Pasteur: contributions by the veterinarians Toussaint and Galtier", Veterinary Heritage : Bulletin of the American Veterinary History Society, 33 (2): 33–39, PMID 21466009
  87. Flower, Darren R. (2008), Bioinformatics for Vaccinology, Chichester: John Wiley & Sons, tr. 31, ISBN 978-0-470-69982-9
  88. Geison, Gerald L. (1990), "Pasteur, Roux, and Rabies: Scientific Clinical Mentalities", Journal of the History of Medicine and Allied Sciences, 45 (3): 341–365, doi:10.1093/jhmas/45.3.341, PMID 2212608
  89. Forster, Patrice Debré ; translated by Elborg (2000), Louis Pasteur (lxb. Johns Hopkins pbk.), Baltimore: Johns Hopkins University Press, tr. 455–456, ISBN 978-0-8018-6529-9
  90. Gelfand, T (2002), "11 January 1887, the day medicine changed: Joseph Grancher's defense of Pasteur's treatment for rabies", Bulletin of the History of Medicine, 76 (4): 698–718, doi:10.1353/bhm.2002.0176, PMID 12446976, S2CID 33145788
  91. Murphy, Timothy F. (2004), Case Studies in Biomedical Research Ethics, Cambridge: MIT Press, tr. 83, ISBN 978-0-262-63286-7
  92. Geison, GL (1978), "Pasteur's work on rabies: reexamining the ethical issues", The Hastings Center Report, 8 (2): 26–33, doi:10.2307/3560403, JSTOR 3560403, PMID 348641
  93. Hoenig, Leonard J. (1986), "Triumph and controversy. Pasteur's preventive treatment of rabies as reported in JAMA", Archives of Neurology, 43 (4): 397–399, doi:10.1001/archneur.1986.00520040075024, PMID 3513741
  94. Vallery-Radot, René (1919), The Life of Pasteur, dịch bởi Devonshire, R. L., London: Constable & Company, tr. 159–168
  95. Debré, Patrice (2000), Louis Pasteur, dịch bởi Forster, Elborg, Baltimore: JHU Press, tr. 512, ISBN 978-0-8018-6529-9
  96. Keim, Albert; Lumet, Louis (1914), Louis Pasteur, Frederick A. Stokes Company, tr. 206
  97. Vallery-Radot, René (1919), The Life of Pasteur, dịch bởi Devonshire, R. L., London: Constable & Company, tr. 458
  98. Frankland, Percy (1901), Pasteur, Cassell and Company, tr. 217–219
  99. Campbell, D M (tháng 1 năm 1915), "The Pasteur Institute of Paris", American Journal of Veterinary Medicine, 10 (1): 29–31, truy cập ngày 8 tháng 2 năm 2010