Trận Dốc Miếu (20.3.1967), là trận tập kích hoả lực của Trung đoàn pháo binh 164 (Quân khu 4) và 1 đại đội súng cối 82 mm của Trung đoàn 270 (Khu đội Vĩnh Linh) vào căn cứ Dốc Miếu (nam cầu Hiền Lương 6 km, thuộc huyện Gio Linh, tỉnh Quảng Trị).
Dốc Miếu là một trong những căn cứ quân sự lớn của Mỹ và quân đội Sài Gòn trên tuyến phòng thủ Đường 9 (nay thuộc địa bàn thôn Lan Đình, xã Gio Phong, huyện Gio Linh, tỉnh Quảng Trị), được xây dựng kiên cố từ năm 1966, vừa để ngăn chặn Quân giải phóng, vừa để tiến hành các hoạt động đánh phá khu vực Vĩnh Linh; lực lượng thường xuyên có 1 tiểu đoàn bộ binh thuộc Trung đoàn 3 quân đội Sài Gòn, khoảng 500 quân; 1 tiểu đoàn pháo binh Mỹ (20 khẩu pháo từ 105mm - 175mm), trên 400 quân; 30 xe tăng và xe bọc thép, khoảng 100 quân; 1 đại đội bộ binh Mỹ. Từ căn cứ Dốc Miếu, pháo binh địch thường xuyên bắn phá ngăn chặn các hoạt động, gây cho ta nhiều tổn thất và khó khăn; đồng thời bắn phá các khu dân cư, gây nhiều tội ác đối với Nhân dân ta.
Trước tình hình đó, đầu năm 1967, Trung đoàn 164 vinh dự được Chủ tịch Hồ Chí Minh giao nhiệm vụ đại diện cho pháo binh miền Bắc, đánh trả, trừng trị pháo binh địch ở bờ nam sông Bến Hải. Trong Bức điện giao nhiệm vụ, Bác Hồ viết "…Các chú đại diện cho pháo binh miền Bắc xã hội chủ nghĩa đánh trả hành động leo thang của pháo binh địch ở bờ Nam, vì vậy trận đầu các chú phải đánh thắng". Để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ Bác giao, Đảng ủy, chỉ huy Trung đoàn 164 đề ra phương châm chỉ đạo: “chuẩn bị chu đáo, bí mật tuyệt đối, nắm chắc thời cơ, đánh trúng, đúng mục tiêu, đánh mãnh liệt”.
Thực hiện nhiệm vụ này, Trung đoàn 164 sử dụng Tiểu đoàn 11 pháo lựu 105 mm (9 khẩu); Tiểu đoàn 1 pháo nòng dài 100 mm (11 khẩu), triển khai trận địa ở bờ bắc sông Bến Hải; đưa Đại đội 11 cối 82 mm (6 khẩu) thuộc Khu đội Vĩnh Linh, bí mật, luồn sâu sát căn cứ cùng 1 đơn vị đặc công phối hợp chiến đấu; đồng thời, dân quân du kích xã Vĩnh Sơn, tổ chức 4 trận địa nghi binh thu hút hoả lực địch.
Sở chỉ huy trận đánh được đặt tại lô cốt Thuỷ Ba Tây; trận địa Tiểu đoàn 11 bố trí bên phải Sở chỉ huy; Tiểu đoàn 1 bố trí bên trái, cách Tiểu đoàn 11 khoảng 2 km; Đại đội cối 82 mm và đơn vị đặc công bí mật luồn sâu sát căn cứ Dốc Miếu.
Từ 17 đến 19.3.1967, được nhân dân xóm Bàu, xã Vĩnh Thuỷ giúp đỡ, các tiểu đoàn 1 và 11 bí mật chiếm lĩnh trận địa an toàn. Từ 14 giờ đến 17 giờ 30 phút, ngày 20.3, quân Mỹ sử dụng 149 lần chiếc máy bay trực thăng đổ trên 1.500 lính thuỷ đánh bộ, 7 khẩu pháo 105 mm, 4 khẩu cối 106,7mm thuộc Sư đoàn 3 thủy quân lục chiến Mỹ xuống Dốc Miếu, chuẩn bị mở cuộc càn Beacon Hill vào tây bắc huyện Gio Linh.
Sau khi hoàn thành mọi công tác chuẩn bị và thời cơ xuất hiện, đúng 18 giờ 15 phút ngày 20.3.1967, các tiểu đoàn pháo đồng loạt nổ súng dồn dập trút "bão lửa" vào căn cứ địch ở Dốc Miếu. Rạng sáng ngày 21.3, Đại đội cối 82 mm tiếp tục đánh bồi vào khu đông nam Dốc Miếu 45 phút; đơn vị đặc công đánh vào 15 xe chở đạn tiếp tế cho căn cứ, diệt thêm khoảng 30 lính Mỹ.
Kết quả, sau gần một giờ chiến đấu, với hơn 1.200 viên đạn pháo và 350 viên đạn cối, ta đã loại khỏi chiến đấu 1 tiểu đoàn địch, phá huỷ 17 khẩu pháo, 57 xe quân sự, 5 máy bay trực thăng; bắn cháy 2 kho đạn và 1 kho xăng dầu.
Trận đánh phát huy tốt yếu tố bất ngờ, cách đánh hiệu quả của từng loại binh khí kỹ thuật, tiêu diệt nhiều sinh lực địch, giành thắng lợi lớn, góp phần phá vỡ âm mưu đánh phá, càn quét của địch; gây tiếng vang lớn trên toàn mặt trận, Trung đoàn vinh dự được Bác Hồ tặng cờ “Quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược”, gửi thư khen, tặng 8 chữ vàng “Chân đồng, vai sắt, đánh giỏi, bắn trúng”.
Tài liệu tham khảo[sửa]
- Pháo binh Việt Nam những chặng đường chiến đấu, tập 2, Bộ Tư lệnh Binh chủng Pháo binh xuất bản, Hà Nội, 1986, tr.277-289.
- Những trận đánh của Pháo binh Việt Nam trong các cuộc chiến tranh giải phóng và bảo vệ Tổ quốc, Bộ Tư lệnh Binh chủng Pháo binh xuất bản, Hà Nội, 1989.
- Quân khu 4: Lịch sử kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954-1975, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1994.
- Bộ Quốc phòng, Trung tâm Từ điển bách khoa quân sự: Từ điển Bách khoa quân sự Việt Nam, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2004, tr.1043.