Mục từ này đã đạt chất lượng ở mức sản phẩm bước đầu của Đề án Biên soạn Bách khoa toàn thư Việt Nam giai đoạn 1
Thuốc chống ung thư

Thuốc chống ung thu là chế phẩm có tác dụng điều trị khối u ác tính. Điều trị bằng thuốc có thể được kết hợp với các phương pháp điều trị khác như phẫu thuật hoặc xạ trị.

Mục đích[sửa]

Ung thư thường được mô tả là những khối u ác tính, là sự phát triển không kiểm soát của các tế bào và thường di căn. Thuốc chống ung thư được sử dụng để tiêu diệt ung thư hoặc hạn chế sự phát triển của chúng để kéo dài tuổi thọ hoặc giảm các triệu chứng của ung thư nhằm nâng cao chất lượng cuộc sống cho người bệnh.

Điều trị bằng thuốc được áp dụng khi khối u đã lan rộng, hoặc di căn sang các bộ phận khác của cơ thể. Các nhóm thuốc điều trị ung thư bao gồm:

Nhóm thuốc alkyl hóa[sửa]

Được biết tới là loại thuốc điều trị ung thư ra đời đầu tiên, nhóm thuốc alkyl hóa như những chiến binh dũng cảm tấn công mạnh mẽ vào các ADN của tế bào ung thư và làm cho các tế bào này bị chết. Cơ chế hoạt động của nhóm hợp chất này chính là gắn nhóm alkyl vào gốc guanine của phân tử AND, ngăn chặn sự liên kết của chuỗi xoắn kép, làm phá vỡ các chuỗi AND, từ đó chặn đứng khả năng phân chia và nhân lên của tế bào ung thư.

Nhóm alkyl hóa có hiệu quả trong tất cả các giai đoạn của tế bào ung thư. Chúng có hiệu quả nhất để điều trị các bệnh ung thư tiến triển chậm như ung thư máu leukemia, và các khối u rắn. Ngoài ra, nhóm alkyl hóa còn được sử dụng trong điều trị ung thư vú, phổi, buồng trứng và tuyến tiền liệt, u lympho, u tủy và sarcomas và bệnh Hodgkin. Tuy nhiên, cần lưu ý vì các tác nhân alkyl hóa ảnh hưởng đến tất cả các tế bào đang phân chia thường xuyên, chúng cũng gây độc cho các tế bào bình thường, đặc biệt là các tế bào đường tiêu hóa, tủy xương, tinh hoàn và buồng trứng.

Thuốc kháng chuyển hóa[sửa]

Thuốc kháng chuyển có cấu trúc tương tự như các enzym hoặc cơ chất tham gia vào quá trình tổng hợp ADN, chính việc “ngụy trang” này đã giúp chúng tác động tới quá trình tổng ADN và làm cho tế bào bị nhầm lẫn và sử dụng các loại thuốc này trong quá trình trong đổi chất.

Điều này gây độc cho tế bào ung thư, làm chúng nhanh chóng bị chết dần đi, các thuốc đặc trị ung thư thuộc nhóm này tác dụng theo cơ chế kháng adenosin, kháng acid folic (kháng folat), kháng purin và kháng pyrimidin như Methotrexat, Capecitabine, 6 – mercaptopurin thioguanin, và Azathioprin.

Nhóm kháng sinh chống ung thư[sửa]

Hầu hết các thuốc thuộc trị ung thư thuộc nhóm này được phân lập từ các vi sinh vật thuộc chi Streptomyces, bằng cách xen vào giữa liên kết giữa 2 chuỗi xoắn kép của ADN, làm chia rẽ sự liên kết giữa, kết quả là ức chế tổng hợp AND. Một số nhóm thuốc ở nhóm này, có thể kể đến như: Daunorubicin, Doxorubicin, Bleuomycin, Dactinomycin, và Olivomycin. Tuy nhiên đây lại là loại thuốc không đặc hiệu theo chu kỳ tế bào.

Các alcaloid thực vật[sửa]

Đây là những alcaloid được chiết xuất, phân lập từ các loại cây cỏ tự nhiên như cây dừa cạn, một số thuốc thuộc nhóm này như:

- Các vinca alcaloid ức chế sự phân bào theo cơ chế ngăn cản sự hình thành các tổ chức sợi tế bào: vinblastin, vincristin, vinorellbine (Navelbine).

- Các podophyllotoxin ức chế enzym topoisomerase II, là enzym cần thiết cho quá trình sinh tổng hợp ADN như: etoposid.

- Các taxoid tác dụng theo cơ chế đẩy mạnh sự hình thành và cố định các tổ chức sợi tế bào, kết quả cũng ức chế tế bào phát triển và nhân lên: paclitaxel.

- Ức chế sự phân chia tế bào: cochicin.

Liệu pháp hormon[sửa]

Thường được áp dụng trong các trường hợp ung thư bắt nguồn từ sự tăng cao bất thường của nội tiết tố và hormon.

- Các androgen: fluoxymesterol, testosterol.

- Các chất kháng thượng thận: aminoglutethimid.

- Các chất kháng androgen: flutamid.

- Các chất kháng estrogen: diethylstibestrol (DES), ethinyl estradiol.

- Các progestin: megestrol

- Các chất tương tự LH, RH: leuprolid

Các thuốc làm thay đổi đáp ứng miễn dịch[sửa]

Các thuốc này thúc đẩy sự lớn lên của tế bào T từ các lympho bào ở máu ngoại vi, làm tăng interferon (alpha, gama), interleukin-2 và 3, tăng số thụ thể lymphokin trên tế bào T dùng trong ung thư biểu mô tế bào gan nguyên phát, ung thư phổi không phải tế bào nhỏ, u tế bào hắc tố.

Các thuốc chữa ung thư thuộc nhóm này là:

- Các interferon: interfero-alpha, interferon-beta, interferon-gamma.

- Các interleukin: aldesleukin (IL - 2).

- BCG (Dacillus Calmette Guerin).

- Levamisole.

- Các yếu tố kích: filgrastim, sargramostim

- Các kháng thể đơn dòng (được FDA phê duyệt): Rituximab (B-cell lymphoma), Trastuzumab (ung thư vú)…

Các thuốc điều trị triệu chứng[sửa]

Thuốc giảm đau, thuốc điều trị táo bón hoặc dị ứng.

Ngoài ra, hiện nay ý tưởng mới trong điều trị ung thư là ức chế tưới máu cho các tế bào ung thư, do đó làm giảm sự phát triển của chúng. Nhiều thuốc mới đang được nghiên cứu và thử nghiệm, mở ra hi vọng mới cho các bệnh nhân ung thư.

Thận trọng[sửa]

Do ảnh hưởng của thiếu máu, suy giảm hệ thống miễn dịch, và rối loạn quá trình tạo máu trên nang tóc nên rụng tóc là hiện tượng phổ biến khi sử dụng các loại thuốc này. Cần căn cứ vào tần suất và mức độ nghiêm trọng để điều chỉnh liều và chu kỳ sử dụng thuốc hợp lý.

Các thuốc chống ung thư thường có hại cho thai nhi, nên sử dụng biện pháp tránh thai hợp lý trong quá trình điều trị.

Tác dụng không mong muốn[sửa]

Tamoxifen (Nolvadex)[sửa]

Tamoxifen làm tăng nguy cơ ung thư tử cung ở phụ nữ. Ngoài ra, tamoxifen có thể gây ra bệnh đục thủy tinh thể và các vấn đề về mắt khác. Phụ nữ khi sử dụng tamoxifen có thể cảm giác nóng bừng, thay đổi kinh nguyệt, ngứa ở bộ phận âm đạo, thay đổi dịch tiết âm đạo và tăng cân. Nam giới khi sử dụng tamoxifen có thể bị giảm ham muốn hoặc mất cảm giác tình dục.

Các thuốc chống ung thư khác[sửa]

Một số các tác dụng không mong muốn khác có thể xảy ra bao gồm thay đổi thời kỳ kinh nguyệt, ngứa da, buồn nôn, nôn và chán ăn. Các tác dụng phụ hiếm gặp khác cũng có thể xảy ra. Cần liên hệ với bác sỹ kê đơn nếu có các triệu chứng bất thường sau khi sử dụng thuốc chống ung thư. Tương tác thuốc

Thuốc chống loạn nhịp có thể gây tương tác với một số thuốc, làm tăng hoặc giảm tác dụng của thuốc, gây thay đổi hoặc tăng nguy cơ gặp các tác dụng không mong muốn. Cần cung cấp cho bác sỹ tất cả những thuốc mà bệnh nhân đang sử dụng, cũng như các liệu trình điều trị ung thư khác như xạ trị hoặc thuốc chống ung thư khác.

Tài liệu tham khảo[sửa]

  1. Lyss, Alan P. Chemotherapy and Radiation for Dummies.

Hoboken, NJ: Wiley, 2005.

  1. Nathan, David G. The Cancer Treatment Revolution: How Smart Drugs and Other New Therapies Are Renewing Our Hope and Changing the Face of Medicine. Hoboken, NJ: John Wiley & Sons, 2007.
  2. Thurston, David E. Chemistry and Pharmacology of Anticancer Drugs. Boca Raton, FL: CRC Press/Taylor & Francis, 2007.
  3. ‘‘Anticancer Drugs.’’ University of Maryland Medical Center. http://www.umm.edu/altmed/articles/anticancer-drugs-002712.htm.
  4. ‘‘Cancer Center.’’ Drugs.com. http://www.drugs.com/cancer.html.
  5. ‘‘Cancer Chemotherapy.’’ MedlinePlus.http://www.nlm.nih.gov/medlineplus/cancerchemotherapy.html.
  6. ‘‘Chemotherapy: Drug Treatment Uses Chemicals to Kill Cancer Cells.’’ MayoClinic.com. http://www.mayoclinic.com/health/chemotherapy/CA00029.
  7. Bộ môn dược lý- Đại học y Hà Nội. Dược lý lâm sàng, Nhà xuất bản Y học.