Mục từ này đã đạt chất lượng ở mức sản phẩm bước đầu của Đề án Biên soạn Bách khoa toàn thư Việt Nam giai đoạn 1
Thuốc điều trị rối loạn tâm thần

Thuốc điều trị rối loạn tâm thần là chế phẩm có tác dụng điều trị các rối loạn tâm thần, bao gồm các trạng thái trầm cảm, lo âu, hoặc trạng thái hưng cảm.

Mục đích[sửa]

Thuốc điều trị rối loạn tâm thần được sử dụng với mục đích kiểm soát các triệu chứng của rối loạn tâm thần. Việc điều trị bằng thuốc đóng vai trò quan trọng nhất cho điều trị bệnh tâm thần. Các thuốc này có thể cắt được các hoang tưởng, ảo giác, hưng phấn ngôn ngữ, vận động (thuốc an thần), làm giảm nhẹ và hết các triệu chứng trầm cảm (thuốc chống trầm cảm), lo âu (thuốc bình thần) và chống tái phát rối loạn cảm xúc lưỡng cực (thuốc chỉnh khí sắc).

Mô tả[sửa]

Trên thế giới, người ta có nhiều cách phân loại thuốc hướng tâm thần, nhưng nói chung có thể phân chia Các thuốc điều trị rối loạn tâm thần theo tác dụng hay mục đích sử dụng:

Thuốc an tĩnh[sửa]

Hay thuốc an thần, thuốc chống loạn thần- Là các thuốc có tác dụng điều trị các triệu chứng loạn thần như hoang tưởng, ảo giác, căng trương lực.

Thuốc chủ yếu được sử dụng để kiểm soát chứng loạn thần. Từ "loạn thần" được sử dụng để mô tả các tình trạng ảnh hưởng đến tâm trí, và trong đó có một số mất liên lạc với thực tế, thường bao gồm ảo tưởng (niềm tin sai lầm, cố định) hoặc ảo giác (nghe hoặc nhìn thấy những thứ không thực sự ở đó). Nó có thể là một triệu chứng của một tình trạng thể chất như lạm dụng ma túy hoặc rối loạn tâm thần như tâm thần phân liệt, rối loạn lưỡng cực, hoặc trầm cảm rất nặng (còn được gọi là “trầm cảm loạn thần”).

Thuốc chống loạn thần thường được sử dụng kết hợp với các loại thuốc khác để điều trị chứng mê sảng, sa sút trí tuệ và các tình trạng sức khỏe tâm thần. Ví dụ thuốc an tĩnh: haloperidol, olanzapine, risperidone, chlorpromazine

Thuốc chống trầm cảm[sửa]

Thuốc chống trầm cảm là loại thuốc thường được sử dụng để điều trị trầm cảm. Thuốc chống trầm cảm cũng được sử dụng cho các tình trạng sức khỏe khác, chẳng hạn như lo lắng, đau đớn và mất ngủ. Mặc dù thuốc chống trầm cảm không được FDA chấp thuận đặc biệt để điều trị ADHD (bệnh tang động giảm chú ý), nhưng thuốc chống trầm cảm đôi khi được sử dụng để điều trị ADHD ở người lớn. Ví dụ một số thuốc chống trầm cảm: amitriptylin, sertralin, fluoxetin.

Thuốc chỉnh khí sắc[sửa]

Là các thuốc chống động kinh, có tác dụng điều chỉnh khí sắc (cả cơn hưng cảm và trầm cảm).

Thuốc được sử dụng chủ yếu để điều trị rối loạn lưỡng cực, thay đổi tâm trạng liên quan đến các rối loạn tâm thần khác và trong một số trường hợp, để tăng tác dụng của các loại thuốc khác được sử dụng để điều trị trầm cảm. Lithium, một chất ổn định tâm trạng không hiệu quả, được phê duyệt để điều trị chứng hưng cảm và điều trị duy trì chứng rối loạn lưỡng cực. Một số nghiên cứu thuần tập mô tả lợi ích chống tự tử của lithium đối với những người duy trì lâu dài.

Thuốc ổn định tâm trạng hoạt động bằng cách giảm hoạt động bất thường trong não và đôi khi cũng được sử dụng để điều trị một số rối loạn khác.

Ví dụ thuốc chỉnh khí sắc: valproat, carbamazepin.

Thuốc bình thần[sửa]

Thuốc bình thần là các thuốc giúp giảm các triệu chứng lo lắng, chẳng hạn như cơn hoảng sợ hoặc lo lắng và sợ hãi tột độ. Thuốc chống lo âu phổ biến nhất được gọi là benzodiazepine. Benzodiazepine có thể điều trị rối loạn lo âu tổng quát. Trong trường hợp rối loạn hoảng sợ hoặc ám ảnh sợ xã hội (rối loạn lo âu xã hội), benzodiazepine thường là phương pháp điều trị hàng đầu, sau SSRI (các thuốc ức chế tái hấp thu Serotonin chọn lọc) hoặc các thuốc chống trầm cảm khác.

Ví dụ thuốc bình thần: diazepam, clonazepam, clozepat.

Ngoài ra, còn có thuốc kích thích, làm tăng sự tỉnh táo, chú ý và năng lượng, cũng như tăng huyết áp, nhịp tim và hô hấp. Thuốc kích thích thường được kê đơn để điều trị trẻ em, thanh thiếu niên hoặc người lớn được chẩn đoán mắc chứng ADHD.

Nguyên tắc sử dụng các thuốc hướng tâm thần[sửa]

Sử dụng các thuốc hướng tâm thần cần tuân thủ các nguyên tắc để đạt hiệu quả cao, giảm thiểu tác động bất lợi của thuốc:

– Dùng càng sớm càng tốt.

– Điều trị kéo dài.

– Điều chỉnh các tác dụng phụ của thuốc.

– Kết hợp với liệu pháp tâm lí-xã hội.

Liều khuyến cáo[sửa]

Liều khuyến cáo khác nhau, tùy thuộc vào loại thuốc được kê, tình trạng bệnh nhân và đáp ứng của bệnh nhân với thuốc được chỉ định.

Tác dụng không mong muốn[sửa]

Khi sử dụng thuốc, bệnh nhân có thể gặp phải các tác dụng không mong muốn tuỳ theo nhóm thuốc điều trị.

Một số thuốc chống trầm cảm có thể gây ra nhiều tác dụng phụ hơn những thuốc khác. Có thể cần thử một số loại thuốc chống trầm cảm khác nhau trước khi tìm ra loại thuốc giúp cải thiện các triệu chứng của bạn và gây ra tác dụng phụ mà bạn có thể kiểm soát. Các tác dụng phụ như nôn, buồn nôn, vấn đề liên quan đến tình dục, ngủ nhiều, ỉa lỏng, tang cân.

Giống như các loại thuốc khác, thuốc chống lo âu có thể gây ra tác dụng phụ. Một số tác dụng phụ và rủi ro là nghiêm trọng. Các tác dụng phụ phổ biến nhất đối với thuốc benzodiazepine là buồn ngủ và chóng mặt. Ngoài ra còn có thể gặp: nôn, đau đầu, lẫn, mệt mỏi, mờ mắt.

Thuốc chống loạn thần có nhiều tác dụng phụ (hoặc các tác dụng ngoại ý) và rủi ro: Hoa mắt, bồn chồn, khô miệng, táo bón, buồn nôn, tang cân, triệu chứng ngoại tháp (cứng, run tay).

Thuốc ổn định tâm trạng có thể gây ra một số tác dụng phụ và một số tác dụng phụ có thể trở nên nghiêm trọng, đặc biệt là khi nồng độ trong máu cao quá mức. Những tác dụng phụ này bao gồm: Ngứa, tiểu nhiều, thay đổi tầm nhìn, run, rụng tóc, ỉa lỏng…

Một số lưu ý[sửa]

Nếu được kê đơn thuốc, hãy chắc chắn rằng:

Nói với bác sĩ về tất cả các loại thuốc và chất bổ sung vitamin bạn đang dùng.

Nhắc nhở bác sĩ về bất kỳ dị ứng và bất kỳ vấn đề nào gặp phải với thuốc.

Hiểu cách dùng thuốc trước khi bắt đầu sử dụng và dùng thuốc theo hướng dẫn.

Không dùng thuốc được kê cho người khác hoặc đưa thuốc của mình cho người khác.

Gọi cho bác sĩ ngay lập tức nếu có bất kỳ vấn đề nào với thuốc của mình hoặc nếu lo lắng rằng thuốc có thể gây hại nhiều hơn lợi. Bác sĩ có thể điều chỉnh liều hoặc thay đổi đơn thuốc sang một đơn thuốc khác có thể phù hợp hơn.

Tài liệu tham khảo[sửa]

  1. Beers, Mark H., Robert S. Porter, and Thomas V. Jones, eds. The Merck Manual of Diagnosis and Therapy. 18th ed. Whitehouse Station, NJ: Merck Research Laboratories, 2006.
  2. Wilson, Billie Ann, Margaret T. Shannon, and Kelly Shields. Pearson Nurse’s Drug Guide 2010. Upper Saddle River, NJ: Prentice Hall, 2009.
  3. DeLeon, A., N. C. Patel, and M. L. Crismon. ‘‘Aripiprazole: A Comprehensive Review of Its Pharmacology, Clinical Efficacy, and Tolerability.’’ Clinical Therapeutics 26 (May 2004): 649–666.
  4. Emsley, R., H. J. Turner, J. Schronen, et al. ‘‘A Single-Blind, Randomized Trial Comparing Quetiapine and Haloperidol in the Treatment of Tardive Dyskinesia.’’ Journal of Clinical Psychiatry 65 (May 2004): 696–701.
  5. Lamberti, J. S., J. F. Crilly, K. Maharaj, et al. ‘‘Prevalence of Diabetes Mellitus among Outpatients with Severe Mental Disorders Receiving Atypical Antipsychotic Drugs.’’ Journal of Clinical Psychiatry 65 (May 2004): 702–706.
  6. Meltzer, H. Y., L. Arvanitis, D. Bauer, et al.‘‘PlaceboControlled Evaluation of Four Novel Compounds for the Treatment of Schizophrenia and Schizoaffective Disorder.’’ American Journal of Psychiatry 161 (June 2004): 975-984.
  7. Stahl, S. M. ‘‘Anticonvulsants as Mood Stabilizers and Adjuncts to Antipsychotics: Valproate, Lamotrigine, Carbamazepine, and Oxcarbazepine and Actions at Voltage-Gated Sodium Channels.’’ Journal of Clinical Psychiatry 65 (June 2004): 738–739.