Thời đại đá mới (Neolithic) là thuật ngữ để chỉ một giai đoạn phát triển của nhân loại với sự xuất hiện kỹ thuật mài công cụ đá, đồ gốm hoặc nông nghiệp sơ khai. Thời đại đá mới ở Việt Nam phát triển qua 3 giai đoạn: sơ, trung và hậu kỳ, mỗi giai đoạn bao hàm một hoặc nhiều văn hoá khảo cổ.
Sơ kỳ[sửa]
Sơ kỳ thời đại Đá mới (12.000 đến 7.000 năm) gồm chủ yếu các văn hóa Hòa Bình và văn hóa Bắc Sơn. Có trên 120 địa điểm thuộc văn hóa Hòa Bình, phân bố tập trung trong các hang động đá vôi ở bắc Việt Nam, có niên đại từ 20.000 đến 7.000 năm BP. Công cụ đá nổi bật của người Hòa Bình là rìu ngắn, rìu hạnh nhân, nạo hình đĩa và rìu mài lưỡi. Người Hòa bình lấy săn bắt - hái lượm là hoạt động kiếm sống chủ yếu, nông nghiệp sơ khai có thể ra đời vào giai đoạn muộn. Cư dân văn hóa Hòa Bình có mặt ở Đông Nam Á lục địa, dấu ấn văn hóa kiểu Hòa Bình còn gặp ở Nam Trung Quốc và Đông Nam Á hải đảo. Văn hoá Bắc Sơn hiện biết có trên 50 hang động, phân bố chủ yếu trong sơn khối đá vôi Bắc Sơn, có niên đại từ 11.000 đến 7.000 năm BP. Cư dân văn hóa Bắc Sơn cư trú trong các hang động đá vôi, chế tác và sử dụng phổ biến rìu mài lưỡi và phiến thạch dài có dấu lõm đôi, săn bắt hái lượm là hoạt động chủ đạo, chưa có dấu hiệu trồng trọt và chăn nuôi.
Cư dân sơ kỳ Đá mới Việt Nam thuộc kỹ nghệ cuội ghè, sớm nảy sinh kỹ thuật mài đá, chế tạo đồ gốm và nông nghiệp sơ khai. Là tiền thân của một số văn hoá trung kỳ Đá mới như Đa Bút, Cái Bèo và Quỳnh Văn, cư dân sơ kỳ Đá mới còn đóng góp tạo dựng sắc thái văn hoá Đông Nam Á thống nhất trong đa dạng.
Trung kỳ[sửa]
Trung kỳ thời đại Đá mới (7.000 - 4.500 năm) với các văn hóa Cái Bèo, Đa Bút và Quỳnh Văn. Văn hoá Đa Bút có 10 địa điểm, phân bố ở vùng đồng bằng ven biển Ninh Bình và Thanh Hóa, niên đại từ 7.000 đến 4.000 năm BP. Người Đa Bút chế tạo và sử dụng rìu mài toàn thân, đồ gốm văn thừng đập nan to, biết trồng trọt một số loại cây rau, củ, nuôi chó và bò; thu lượm hến cửa sông, phát triển đánh cá ven bờ biển. Văn hoá Quỳnh Văn thuộc loại hình cồn sò điệp, có 21 địa điểm phân bố tập trung ở vịnh cổ Quỳnh Lưu, niên đại 6.000 -3.500 năm BP. Người Quỳnh Văn thu lượm nhuyễn thể biển, chế tác công cụ đá ghè đẽo kém định hình, sáng tạo gốm đáy nhọn giai đoạn sớm và gốm văn chải mặt trong, văn in mặt ngoài vào giai đoạn muộn. Người Quỳnh Văn thiên về khai thác nhuyễn thể biển, đánh cá không phát triển, săn bắt ở vị trí khiêm tốn, nông nghiệp chưa ra đời, là tiền thân của văn hoá Bàu Tró. Văn hoá Cái Bèo cóơn 10 di chỉ, phân bố ở vùng duyên hải Đông Bắc, niên đại 7.000 - 4.000 năm BP, tiêu biểu là rìu tứ giác, rìu có vai mài toàn thân; đồ gốm đáy bằng, văn in dấu đan. Người Cái Bèo định cư ven bờ biển, sử dụng lưới vó, đánh bắt cá xa bờ và gần bờ, gia công thực phẩm tại nơi cư trú và là nguồn tạo dựng văn hoá Hạ Long.
Cư dân trung kỳ Đá mới Việt Nam là những người tiên phong khai phá đồng bằng ven biển, làm nảy sinh các trung tâm sản xuất đồ gốm sớm, hình thành các định hướng kinh tế khai thác cho các vùng khác nhau, là tiền thân trực tiếp của các văn hóa biển tiền sử Hạ Long và Bàu Tró.
Hậu kỳ[sửa]
Hậu kỳ thời đại Đá mới (4.500 - 3.000 năm) gồm một số các văn hóa khảo cổ, phân bố ở mọi địa hình đất nước. Ở vùng núi phái bắc là văn hóa Mai Pha (Lạng Sơn) và Hà Giang (Hà Giang, Tuyên Quang); vùng ven biển và hải đảo là văn hóa Hạ Long và văn hóa Bàu Tró; vùng cao nguyên đất đỏ Tây Nguyên là các văn hóa Lung Leng (Kon Tum), Biển Hồ (Gia Lai) và Buôn Triết (Đắk Lắk - Đắk Nông). Cùng bình tuyến với các văn hóa kể trên, có một số nhóm cư dân hậu kỳ Đá mới phân bố ở vùng núi phía bắc, vùng núi Bắc Trung Bộ, vùng cao nguyên.
Các cộng đồng cư dân hậu kỳ Đá mới Việt Nam phát triển theo hướng hội tụ vào một trong hai nền văn hoá thời đại kim khí sau này. Các văn hoá: Hà Giang, Mai Pha và Hạ Long thông qua nhóm di tích Tiền Đông Sơn ở Bắc Việt Nam để tiến tới văn hóa Đông Sơn, văn minh Việt cổ; còn các văn hoá Bàu Tró, Lung Leng, Biển Hồ và Buôn Triết cùng các di tích duyên hải Trung Bộ thông qua nhóm di tích Tiền Sa Huỳnh tiến tới Sa Huỳnh.
Ý nghĩa[sửa]
Diễn trình lịch sử thời đại Đá mới Việt Nam mang tính quy luật rõ nét. Đó là sự lan toả chiếm cư ngày một nhiều các kiểu địa hình, nhưng mỗi văn hóa lại thu hẹp dần diện phân bố và ngắn dần khung thời gian tồn tại; mức độ phát triển không đều ngày một gia tăng. Săn bắt - hái lượm theo phổ rộng, hái lượm luôn trội hơn săn bắt, khi chuyển sang nông nghiệp là nông nghiệp đa canh, trồng trọt trội hơn chăn nuôi. Thời đại Đá mới Việt Nam có một vị trí bản lề trong quá trình hình thành và phát triển văn hóa, văn minh Việt Nam.
Tài liệu tham khảo[sửa]
- Hà Văn Tấn (chủ biên) (1999), Khảo cổ học Việt Nam, tập I, Thời đại Đá vIệt Nam, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.
- Nguyen Khac Su (2004), The Neolithic Cultures of Vietnam, in Southeast Asia from prehistory to history. Edited by Iam Glover and Peter Bellwood, London and New York, pp. 177 - 188.