Mục từ này đã đạt chất lượng ở mức sản phẩm bước đầu của Đề án Biên soạn Bách khoa toàn thư Việt Nam giai đoạn 1
Từ Chi
Giáo sư Nguyễn Từ Chi (khoảng 1990-1992)

Từ Chi là một nhà dân tộc học hàng đầu của Việt Nam thế kỷ XX. Ông có tên đầy đủ là Nguyễn Đức Từ Chi (17/12/1925 – 15/10/1995), bút danh là Trần Từ , chuyên gia nghiên cứu về người Mường và làng xã người Việt. Ông được biết đến như một nhà nghiên cứu văn hóa, dịch giả, biên tập viên và là người thầy đáng kính.

Tiểu sử[sửa]

Ông sinh ngày 17/12/1925 tại Đồng Hới, Quảng Bình, thuộc dòng họ Nguyễn Đức ở xã Ích Hậu, huyện Can Lộc (nay là huyện Lộc Hà), tỉnh Hà Tĩnh, là một dòng họ nổi tiếng về Nho học. Ông nội ông là Nguyễn Hiệt Chi (một sĩ phu Duy Tân) người đồng sáng lập ra Công ty Liên Thành và Trường Dục Thanh ở Phan Thiết. Người em của ông nội là Nguyễn Hàng Chi (cũng là một chí sĩ Duy Tân), lãnh đạo phong trào chống thuế ở Nghệ Tĩnh và bị chính quyền thực dân Pháp xử tử năm 1908. Bố ông là Bác sĩ Nguyễn Kinh Chi (nguyên Thứ trưởng Bộ Y tế thời kháng chiến chống Pháp và Đại biểu Quốc hội khóa I - IV). Chú ruột ông là Giáo sư Nguyễn Đổng Chi, nhà nghiên cứu văn hóa dân gian.

Thuở nhỏ, ông theo học tại Trường trung học Pellerin ở Huế và đậu Tú tài toàn phần Ban Triết học văn chương năm 1945.

Tháng 8 năm 1945, ông tham gia Việt Minh, làm biên tập viên tờ Tin tức Tuyên truyền Trung Bộ rồi gia nhập Đoàn quân Nam tiến. Tháng 10 năm 1946, ông được kết nạp vào Đảng Cộng sản Việt Nam tại mặt trận Nam Trung Bộ.

Năm 1948, ông là Chính trị viên Trung đội Trinh sát E80. Năm 1950, ông là Chính trị viên Đại đội Trinh sát E80.

Năm 1953, sau khi tham gia chiến dịch “Giảm tô” và “Cải cách ruộng đất” ở một vài nơi, ông được giải ngũ và được điều ra Việt Bắc làm công tác biên tập cho Thông tấn xã Việt Nam. Năm 1954, ông theo cơ quan trở về Hà Nội.

Năm 1957, ông vào học Khoa Sử, Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội khóa 2, chuyên ngành Dân tộc học. Từ đây, ông đã dành hầu như tất cả tâm lực còn lại cho cuộc hành trình có định hướng trong dân tộc học .

Sau khi tốt nghiệp năm 1960, ông về làm nghiên cứu ở Viện Sử học, tổ Dân tộc học.

Năm 1961, ông được cử sang Guinée làm chuyên gia về giáo dục. Tại đây, ngoài thời gian giảng dạy, ông còn nghiên cứu nhiều đến tư liệu dân tộc học châu Phi và liên tục đi điền dã để xây dựng luận án Phó tiến sĩ dân tộc học châu Phi với đề tài về Đế quốc Gao (tức Đế quốc Songhai Tây Phi). Tuy nhiên, khi về nước, đề tài này đã không được chấp thuận.

Năm 1963, ông về nước và được phân công làm việc ở Viện Mỹ thuật – Mỹ nghệ (nay là Viện Mỹ thuật).

Năm 1966, ông được điều trở lại công tác tại Tổ Dân tộc học trực thuộc Ủy ban Khoa học xã hội Việt Nam (nay là Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam), được thành lập từ Tổ Dân tộc học của Viện Sử học.

Đến năm 1972, ông chuyển công tác làm biên tập viên cho Tạp chí Nghiên cứu Văn hoá - Nghệ thuật (nay là Tạp chí Văn hóa nghệ thuật) và Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam, với mong muốn có thể tự túc làm nghiên cứu dân tộc học.

Năm 1979 - 1980, ông được mời sang Pháp trình bày tại Đại học Sorbonne Paris về những kết quả nghiên cứu của mình về người Mường.

Năm 1984, ông được Nhà nước Việt Nam phong học hàm Phó Giáo sư.

Năm 1987, ông được nghỉ hưu ở tuổi 62. Tuy nhiên, ông vẫn tiếp tục là cộng tác viên thân tín của Viện Nghiên cứu Đông Nam Á, Tạp chí Đông Nam Á, Viện Dân tộc học, Tạp chí Dân tộc học, Trường Viết văn Nguyễn Du, Nhà xuất bản Ngoại văn (nay là Nhà xuất bản Thế giới), Bảo tàng Con người (Musée de I’ Homme) của Pháp ở Paris... Ông cũng tham gia làm ủy viên của nhiều Hội đồng chấm luận án phó tiến sĩ (nay là tiến sĩ) và Hội đồng xét giải thưởng hàng năm cho các tác phẩm nghiên cứu, sưu tầm của Hội viên Hội Văn nghệ Dân gian Việt Nam.

Ngày 15/10/1995, ông qua đời tại bệnh viện Hữu nghị Hà Nội.

Đóng góp[sửa]

Mặc dù ông từng sang Pháp nghiên cứu và tham gia đoàn chuyên gia trợ giúp giáo dục cho các nước châu Phi, nhưng “mảnh đất thiêng” của truyện cười là làng quê Việt Nam, là những vùng đất có sự cư trú của người Mường. Ông sớm tìm hiểu thuyết cấu trúc luận của người Pháp để về ứng dụng vào việc nghiên cứu hoa văn trên cạp váy người Mường. Những phát hiện của ông là minh chứng sinh động về tính bản địa của nền văn hóa Đông Sơn, góp phần khẳng định vai trò chủ nhân quan trọng của cư dân Việt - Mường với nền văn hóa này.

Những kết quả nghiên cứu của ông là sản phẩm của tinh thần lao động khoa học nghiêm túc, chân chính. Ông luôn đề cao tính chủ thể và quan điểm bản địa như một nguyên tắc nghiên cứu dân tộc học của mình. Ông được bạn bè, đồng nghiệp và những thế hệ học trò nhớ đến bởi những cống hiến đối với ngành dân tộc học cùng đức tính khiêm nhường, hóm hỉnh và giản dị chứ không phải bằng những vinh quang và danh vọng hào nhoáng. Vượt lên tất cả những khốn khó của đời thường, ông được coi là nhà dân tộc học hàng đầu Việt Nam thế kỷ XX.

Trong sự nghiệp nghiên cứu, sưu tầm văn hóa, nghệ thuật dân gian, ông có nhiều công trình đăng trên các tạp chí chuyên ngành có khám phá độc đáo, nhiều sách và ấn phẩm dịch. Với công trình viết bằng tiếng Pháp “Vũ trụ quan Mường” (La Cosmologie Mương, Paris, 1997), ông được giới dân tộc học ở nước ngoài, nhất là ở Pháp coi là chuyên gia số một về người Mường. Giáo sư George Condominas nhận định về ông: “Nếu con người bác học khiến ta phải khâm phục thì con người vừa khiêm tốn vừa uyên bác mà không kiểu cách, có óc hài hước, sâu sắc trong ngôn từ và trong hội họa, thoải mái trong cách ăn mặc - đã thu hút lập tức và lâu bền cảm tình của người khác” .

Giáo sư Trần Quốc Vượng đã khẳng định những giá trị lớn lao của những công trình nghiên cứu dân tộc học của ông: “Ông là người đi nhiều, đọc rộng, có quan cảm điền dã minh mẫn, thích nắm bắt cái cụ thể song đồng thời lại có những nhận xét sắc sảo, có sức khái quát hóa cao sâu…” .

Sau khi ông mất, toàn bộ các tài liệu, di cảo, bản thảo… được Viện Nghiên cứu Đông Nam Á lưu giữ. Đến năm 2005, những tài liệu, di cảo này đã được trao lại Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam quản lý. Giáo sư, tiến sĩ Nguyễn Văn Huy (nguyên Giám đốc bảo tàng Dân tộc học Việt Nam) ghi nhận kho tư liệu, di cảo của Giáo sư truyện cười là một tài sản quý giá vô cùng - là di sản dân tộc học hiếm hoi của nước nhà được tích góp từ công lao trong mấy chục năm nghiên cứu và làm việc của một giáo sư đầu ngành dân tộc học. Di sản của ông bao gồm hàng chục nghìn trang tư liệu. Quý giá nhất là những tư liệu về dân tộc học.

Phó Giáo sư, tiến sĩ Phạm Ðức Thành (nguyên Viện trưởng Viện nghiên cứu Ðông Nam Á) nhận xét: “tất cả di cảo của giáo sư truyện cười là bằng chứng cho việc nghiên cứu lao động khoa học và mẫu mực. Giáo sư đã để lại cho lớp nghiên cứu thế hệ trẻ một phương pháp nghiên cứu nói chung và kỹ thuật điền dã tỉ mỉ, cẩn trọng, chính xác trong việc ghi chép, lưu giữ tư liệu”.

Giáo sư George Condominas nhận định về ông trong Lời giới thiệu cuốn La cosmologie Muong, Pa-ri, 1997 đã viết những dòng trân trọng: “Nhà nghiên cứu độc đáo này, đầy tính độc lập, đầy tài năng, như tôi chứng kiến trong vòng hai chục năm cuối đời ông, được mọi người ngưỡng mộ, bạn bè và đồng nghiệp yêu mến”... “Từ Chi mang sẵn trong mình phẩm chất của một con người thực địa: một tinh thần cởi mở, vì mọi người, một tính cách tò mò khám phá, có thể nói là về mọi phương diện, sử dụng một cách thuần thục ngôn ngữ của người địa phương”.

Nói về giá trị khoa học của những công trình nghiên cứu dân tộc học của ông, Giáo sư Nguyễn Huệ Chi cho rằng: “Theo ý kiến của giới nghiên cứu dân tộc học trong nước và nhiều nhà dân tộc học nước ngoài, Nguyễn Từ Chi là một trong số rất ít tên tuổi được xếp ở hàng đầu của ngành dân tộc học Việt Nam mà công trình để lại, tuy không nhiều và không có gì đồ sộ, nhưng còn có sức khơi mở lâu dài, về thực tiễn và lý thuyết cũng như về phương pháp luận. Tích cực kế thừa nhà Mường học nổi tiếng Jeanne Cusinier, nhưng không lặp lại mọi thao tác trên con đường của người đi trước, ông đã vươn tới những đóng góp bổ sung mới mẻ so với Cusinier. Vũ trụ luận người Mường của ông, được viết bằng hai thứ tiếng Việt và Pháp, vốn nâng cấp từ một tiểu luận in trên báo, chung quy chỉ chưa đầy 100 trang, vậy mà đến nay vẫn khiến nhiều bạn đọc say mê thích thú, bởi không ít phát hiện bất ngờ mà nó chứa đựng. Công trình bất hủ ấy không chỉ dẫn dắt ta đi qua 12 đêm lễ tang cổ truyền của người Mường tuần tự, tỷ mỉ, dựa trên các bản tang ca được làm sống lại chủ yếu bằng phương pháp vấn thoại hồi cố; nó còn giúp ta hình dung một cách thật sinh động con đường dằng dặc, vòng vèo, đưa tiễn các tinh linh người chết, qua đó hiện dần lên quan niệm vũ trụ ba tầng, bốn thế giới nhìn theo trục dọc, với rất nhiều khuếch đại thu nhỏ hoặc đảo ngược kỳ lạ trong cấu trúc giữa các “cõi sống và cõi chết” ấy, và mối liên kết giữa hai xã hội mường ma và mường người nhìn theo trục ngang - mà ma là xạ ảnh “âm tính” của cá nhân con người, của một tộc người cùng cội nguồn với người Việt, mà về cảm quan hữu thức còn bóc tách ra được những nét tinh ròng, chưa bị pha tạp hoặc ảnh hưởng của văn hóa phương Bắc. Cạp váy Mường cũng chỉ 100 trang, nhưng nhìn trong tư duy liên kết với các loại môtip hình học và môtip động vật của hoa văn Thái, Tày, hoa văn Bhanar, Djarai và xa hơn đến cả hoa văn Trống Đồng Đông Sơn, lại là một bức tranh tổng thể về ký ức văn hóa mang nét đặc trưng của cả một vùng rộng lớn trên lãnh thổ Việt Nam, khai triển từ thoáng đến rậm, từ dải đến ô vuông xếp chéo cho đến ngôi sao tám cánh, và di chuyển ngược chiều kim đồng hồ, được in dấu, bảo lưu và khúc xạ qua nhiều thời đại, nó tạo nên hồi âm của một bản sắc đã khá ổn định, đi suốt chiều sâu lịch sử hàng mấy ngàn năm. Cơ cấu tổ chức của làng Việt cổ truyền ở Bắc Bộ cũng viết bằng song ngữ Việt Pháp và cũng chẳng dày hơn hai cuốn trên, là một khung quy chiếu mẫu mực về mọi mối quan hệ xã hội phức tạp chằng chéo của nền kinh tế tiểu nông dân tộc Kinh, xoay quanh một chuỗi vận hành quanh co, không ngừng tái sinh, lộn kiếp đầu thai như trong truyện cổ, của quá trình tư hữu hóa ruộng đất dưới các hình thức khác nhau, được định vị từ nhiều bình diện, trên nhiều môi trường địa lý, và bằng nhiều lát cắt lịch sử từ quá khứ cho đến hiện tại, nhờ đấy người khác có thể dựa vào để mở rộng, soi chiếu cho vô số mô hình cụ thể riêng rẽ ở các cơ tầng, vùng miền khu biệt của xã thôn Việt Nam” .

Giải thưởng[sửa]

Với những cống hiến to lớn của mình, ông đã được Nhà nước Việt Nam truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh đợt 2 năm 2000 cho bốn công trình: “Cơ cấu tổ chức của làng Việt cổ truyền ở Bắc Bộ” (1984), “Hoa văn Mường” (1978), “Hoa văn các dân tộc Djarai-Bhana” (1986) và “Người Mường ở Hoà Bình” (viết nhiều năm, công bố hoàn chỉnh 1995).

Trên hết tất cả, ngoài một kiến thức uyên bác ông học được từ phương Tây, thì điều quan trọng nhất là từ những lý luận phương Tây đó ông đã tiến hành kiểm nghiệm nó trên thực tiễn Việt Nam để tìm ra những tầng sâu của văn hoá đất nước. Mọi vấn đề lý luận của ông đều bắt nguồn từ những tư liệu khoa học nghiêm túc, tỉ mỉ trên thực địa để từ đó đưa ra những phát hiện mới thuyết phục giới nghiên cứu ở tầm quốc tế và đã được thế giới ghi nhận.

Tài liệu tham khảo[sửa]

  1. Nguyễn Huệ Chi, “Từ Chi – Anh tôi”, Tạp chí Văn hoá Nghệ thuật, số 8-2005, 2005.
  2. George Condominas, La cosmologie Muong, Paris, 1997.
  3. Phạm Đức Dương, “Nguyễn Đức Từ Chi (1925-1995)- một nhà nhân học xuất sắc”, in trong cuốn Những cuộc đời những trang thơ, Nxb Khoa học xã hội, 2003.
  4. Chu Thái Sơn, “Từ Chi: Một hiện tượng - một sự kiện dân tộc học”, Tạp chí Dân tộc & Thời đại, số 83.