Mục từ này đã đạt chất lượng ở mức sản phẩm bước đầu của Đề án Biên soạn Bách khoa toàn thư Việt Nam giai đoạn 1
Tái cơ cấu tổ chức

Tái cơ cấu tổ chức (hay Cải cách thể chế,tiếng Anh Institutional Reform) là quá trình xem xét và cơ cấu lại các thể chế nhà nước để các thể chế này tôn trọng quyền con người, bảo tồn pháp quyền và chịu trách nhiệm trước các thành viên của mình. Bằng cách kết hợp yếu tố công lý chuyển tiếp, các nỗ lực cải cách vừa có thể cung cấp trách nhiệm giải trình cho mỗi vi phạm, vừa vô hiệu hóa các cấu trúc để xảy ra lạm dụng.

Tái cơ cấu tổ chức là mục tiêu quan trọng trong ứng dụng công nghệ thông tin trong cơ quan nhà nước, đặc biệt là trong Chính phủ Điện tử và Chính phủ số. Nếu thiết lập thể chế là sự đảm bảo về mặt tổ chức cho việc thực thi quyền lực hành chính một cách bình thường và có trật tự, đồng thời là một mắt xích quan trọng ảnh hưởng trực tiếp đến chi phí hành chính và hiệu quả quản lý, thì tái cơ cấu tổ chức của Chính phủ là cơ sở của cải cách hệ thống chính trị và tái cơ cấu hành chính và là điểm nối giữa cải cách hệ thống kinh tế và cải cách hệ thống chính trị. tái cơ cấu tổ chức chính phủ kết nối chính phủ và thị trường.

Vai trò[sửa]

Tái cơ cấu tổ chức có những vai trò to lớn.

Ổn định tình hình kinh tế vĩ mô: Điều này là cần thiết nếu muốn cạnh tranh trong nền kinh tế toàn cầu hóa. Cần kiềm chế tỷ lệ lạm phát cao, chi tiêu không hiệu quả, mất cân đối tài khóa và thâm hụt cán cân thanh toán lớn. Chỉ khi đó, nhà nước mới có thể dành nhiều nguồn lực hơn để xây dựng cơ sở hạ tầng đầy đủ (như đường xá, bến cảng và sân bay, điện và nước), củng cố các cơ sở phát triển lâu dài (như giáo dục, y tế, và môi trường), và cuộc đấu tranh chống lại nghèo đói và bị loại trừ.

Giảm quy mô của khu vực công: Nhà nước cần rút khỏi khu vực thương mại và dành nhiều thời gian và nguồn lực hơn cho việc cung cấp các dịch vụ công thiết yếu. Công cụ cho việc này là tư nhân hóa các doanh nghiệp công kém hiệu quả. Khu vực tư nhân được trang bị tốt hơn nhiều so với chính phủ để quản lý các hoạt động thương mại một cách hiệu quả, vì bộ máy ra quyết định của họ ít khó sử dụng hơn và khả năng thích ứng với những thay đổi của môi trường lớn hơn.

Cải cách trong lĩnh vực này phải được hướng dẫn bởi mong muốn tự do hóa các hoạt động kinh tế và thúc đẩy doanh nghiệp tự do. Do đó, nhà nước phải khuyến khích cạnh tranh lành mạnh giữa các doanh nghiệp đồng thời xóa bỏ các đặc lợi kinh tế và các cơ chế trao vị trí thống lĩnh một cách hợp pháp cho một công ty hoặc tác nhân kinh tế.

Quản trị tốt: Các quốc gia cần tập trung vào các vấn đề sau:

  • Sự minh bạch của chính phủ: Công dân phải được thông báo về các quyết định của nhà nước và sự biện minh của họ.
  • Đơn giản về thủ tục: Cho dù trong các vấn đề tài khóa, đầu tư hay các lĩnh vực khác, các thủ tục hành chính cần đơn giản nhất có thể, với số lượng người tham gia được giảm xuống mức tối thiểu.
  • Nhiệm vụ: Các công chức phải chịu trách nhiệm và nếu cần thiết sẽ bị trừng phạt nếu vi phạm.
  • Đấu tranh chống tham nhũng: Việc xóa bỏ tai họa này là cấp thiết để thúc đẩy cạnh tranh lành mạnh, xóa bỏ phụ phí và tăng cường hiệu quả quản lý kinh tế.
  • Tự do cá nhân và thể hiện tập thể: Đặc biệt, một nền báo chí tự do và có trách nhiệm là một trụ cột quan trọng của nền dân chủ.
  • Tính độc lập của hệ thống pháp luật: Hệ thống pháp luật phải không bị áp lực và can thiệp từ các lực lượng chính trị hoặc bất kỳ tổ chức nào khác, để đảm bảo rằng các quyết định của nó là độc lập và không thiên vị.

Biện pháp thực hiện[sửa]

Tái cơ cấu tổ chức có thể bao gồm nhiều biện pháp liên quan đến tư pháp, chẳng hạn như:

  • Thẩm định: kiểm tra lý lịch nhân sự trong quá trình tái cơ cấu hoặc tuyển dụng để loại khỏi dịch vụ công hoặc xử phạt các quan chức lạm dụng và tham nhũng.
  • Cải cách cơ cấu: tái cấu trúc các thể chế để thúc đẩy tính liêm chính và hợp pháp, bằng cách cung cấp trách nhiệm giải trình, xây dựng tính độc lập, đảm bảo tính đại diện và tăng khả năng đáp ứng.
  • Giám sát: tạo ra các cơ quan giám sát có thể nhìn thấy công khai trong các cơ quan nhà nước để đảm bảo trách nhiệm giải trình đối với quản trị dân sự.
  • Chuyển đổi khuôn khổ pháp lý: cải cách hoặc tạo ra các khuôn khổ pháp lý mới, chẳng hạn như thông qua các sửa đổi hiến pháp hoặc các hiệp ước quốc tế về quyền con người để đảm bảo bảo vệ và thúc đẩy quyền con người.
  • Giải trừ quân bị, xuất ngũ và tái hòa nhập: giải tán các lực lượng vũ trang - chẳng hạn như các nhóm bán quân sự - và cung cấp các quy trình và phương tiện nhạy cảm với công lý mà nhờ đó các cựu chiến binh có thể tái gia nhập xã hội dân sự.
  • Giáo dục: các chương trình đào tạo cho cán bộ công nhân viên về quyền con người hiện hành và các tiêu chuẩn luật nhân đạo quốc tế.

Tái cơ cấu tổ chức nông nghiệp[sửa]

Các bước mà chính phủ thực hiện để thúc đẩy những cải tiến trong nông nghiệp:

1. Tập hợp và hợp nhất đất đai để làm cho chúng có hiệu quả kinh tế.

2. Cuộc cách mạng xanh dựa trên việc sử dụng công nghệ

3. Hợp tác với nông dân

4. Cung cấp bảo hiểm cây trồng để bảo vệ nông dân trước những thiệt hại do thiên tai như hạn hán, lũ lụt, lốc xoáy, cháy nổ và dịch bệnh.

5. Thành lập các hiệp hội hợp tác “Ngân hàng Gramin” và các Ngân hàng để cung cấp các cơ sở cho vay cho nông dân với lãi suất thấp hơn.

6. Thẻ tín dụng Kissan (KCC), Persona) Chương trình Bảo hiểm Tai nạn (PAIS) là một số chương trình khác được chính phủ đưa ra vì lợi ích của nông dân.

7. Đài phát thanh và TV giới thiệu các bản tin thời tiết đặc biệt và các chương trình nông nghiệp cho nông dân.

Cải cách thể chế và ứng dụng công nghệ thông tin[sửa]

Kết quả của việc ứng dụng công nghệ thông tin trong cơ quan nhà nước là việc thay đổi quy trình và chia sẻ dữ liệu dẫn tới việc tái cơ cấu tổ chức. Như vậy, có thể nói rằng ứng dụng công nghệ thông tin và cải cách hành chính công là hai hoạt động không thể tách rời. Tuy vậy trong thực tế, các chuyên gia về công nghệ thông tin thường bỏ qua các vấn đề cải cách hành chính, các học giả về hành chính công thường nhắc tới công nghệ thông tin đơn thuần như một công cụ thực hành nằm ngoài phạm vi của cải cách hành chính. Điều đó khiến cho việc triển khai Chính phủ Điện tử gặp nhiều khó khăn.

Ngày nay, việc ứng dụng công nghệ thông tin trong chính phủ đã trở thành trọng tâm liên quan tới mọi hoạt động quan trọng nhất của chính phủ. Chính phủ Điện tử và Chính phủ số có liên quan tới việc chuyển đổi và cải cách chính phủ.

Các nước đang phát triển thường áp dụng các cải cách để cải thiện chính phủ của họ nhưng họ thường không tạo ra được các chính phủ hoạt động hiệu quả hơn. Andrews lập luận rằng các cuộc cải cách thường không làm cho các chính phủ tốt hơn vì chúng được đưa ra như những tín hiệu để đạt được sự hỗ trợ trong ngắn hạn. Những tín hiệu này đưa ra các phương pháp hay nhất không thực tế, không phù hợp với bối cảnh của các nước đang phát triển và không được các đại lý triển khai coi là phù hợp. Kết quả là một tập hợp các biểu mẫu mới không hoạt động. Tuy nhiên, có những giải pháp thực tế xuất hiện từ cải cách thể chế ở một số nước đang phát triển. Bài học từ những kinh nghiệm này cho thấy rằng các giới hạn cải cách, mặc dù khó áp dụng, có thể được khắc phục bằng cách tập trung thay đổi vào giải quyết vấn đề thông qua một quá trình gia tăng bao gồm nhiều tác nhân.

Cải cách thể chế là một trong những hướng đi quan trọng nhất của Việt Nam, được chủ động khởi xướng từ sau Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam VI năm 1986 với mục tiêu đưa ra các cải cách từ nhiều hướng khác nhau nhằm cải thiện thể chế, cải thiện môi trường sống và kinh doanh, tăng sức cạnh tranh của quốc gia Việt Nam với khu vực và quốc tế. Các cải cách này được triển khai thông qua nhiều chương trình cụ thể trong từng lĩnh vực dưới những mục tiêu chung liên tục được cập nhật. Cải cách thể chế ở Việt Nam cũng được sự ủng hộ và hỗ trợ từ nhiều quốc gia trên thế giới. Đây là một quá trình khá lâu dài mà bước đầu là nhận thức và định hướng, sau đó là việc đưa ra các chương trình, mục tiêu cụ thể.

Cải cách thể chế cũng là một trong những mục tiêu của Đề án Tin học hóa cải cách hành chính (Đề án 112). Đề án này bước đầu đã triển khai việc ứng dụng công nghệ thông tin tới tất cả các bộ ngành và địa phương và đặt nền tảng cho việc tin học hóa cải cách hành chính. Đề án 112 bị xem như là thất bại do không phối hợp được với Đề án Cải cách hành chính. Tuy đề án này tạo ra được sự kết nối bước đầu, hình thành được một số mô hình trung tâm tích hợp dữ liệu và ứng dụng dùng chung. nhưng ảnh hưởng tới tái cơ cấu tổ chức của Đề án 112 hầu như không đáng kể. Điều đó vừa là nguyên nhân vừa là hậu quả của việc thất bại của đề án.

Hiện nay, Việt Nam đã thực sự từ bỏ mô hình nhà nước kế hoạch hóa tập trung, đi theo mô hình nhà nước kiến tạo phát triển. Việt Nam đang theo đường lối công nghiệp hóa đất nước, thừa nhận cơ chế thị trường nhưng vẫn coi trọng vai trò quản lý của Nhà nước. Như vậy, mọi thành phần quan trọng của một nhà nước kiến tạo phát triển đều đã được khẳng định trong đường lối phát triển của chúng ta. Có lẽ, chính vì thế, kinh tế Việt Nam đã có sự phát triển đáng kể.

Tài liệu tham khảo[sửa]

  1. V. Homburg, Technology as Enabler of Institutional Reform in Government, Encyclopedia of Information Science and Technology, Third Edition, DOI: 10.4018/978-1-4666-5888-2.ch272
  2. J.E. Fountain, Building the Virtual State: Information Technology and Institutional Change, Public Administration Review 63, No. 6 (2003),738-741.
  3. W. Richard Scott, Organizations and Institutions, SAGE Publ., 2014.