Hoàn cảnh
Với việc lần lượt ký kết Hiệp ước Harmand (25/8/1883) và Hiệp ước Patenôtre (6/6/1884), triều Nguyễn đã chính thức đặt cơ sở lâu dài cho quyền đô hộ của thực dân Pháp ở Việt Nam. Chính điều này đã gây nên nhiều bất mãn trong triều đình và toàn thể nhân dân ta. Đứng đầu phe chủ chiến là Thượng thư Bộ binh Tôn Thất Thuyết, đã bí mật xây dựng lực lượng, căn cứ để chuẩn bị cho 1 cuộc phản công khi thời cơ đến. Ngày 31/7/1884, Tôn Thất Thuyết cho phế truất vua Kiến Phúc - một ông vua có tư tưởng thân Pháp và đưa Ưng Lịch (vua Hàm Nghi) mới 14 tuổi lên ngôi.
Cuối năm 1884, giữa lúc quân Pháp đang gặp nhiều khó khăn về quân sự ở Bắc Kỳ, Tôn Thất Thuyết lấy danh nghĩa vua Hàm Nghi phản đối việc Pháp đưa 300 lập đồn Mang Cá ngay trong kinh thành Huế. Không những rút lui, Pháp cho tăng thêm số quân đóng ở Mang Cá. Trước tình hình đó, Tôn Thất Thuyết huy động số quân còn lại ở các địa phương tập trung về Huế, để chuẩn bị cho 1 cuộc phản công. Kế hoạch bị lộ, ngày 27/6/1885, tướng De Courcy điều 4 đại đội và 2 tàu chiến từ Hải Phòng vào kinh thành Huế.
Biết rõ lực lượng của Pháp, để tăng thế chủ động, rạng sáng 5/7/1885, Tôn Thất Thuyết chỉ đạo hai đạo quân cùng lúc tấn công các căn cứ Pháp đóng tại Huế. Bị tấn công bất ngờ, quân Pháp bị rối loạn nhưng với ưu thế về lực lượng và vũ khí, chúng nhanh chóng mở lại cuộc phản công. Chúng cướp bóc tài sản và sát hại dã man những người dân vô tội, hầu như ngày nào cũng có người dân bị chết. Sau này, nhân dân Huế đã lấy ngày 23/5 âm lịch làm ngày giỗ chung.
Tình hình diễn biến ngày càng phức tạp, Tôn Thất Thuyết đã bí mật rước vua Hàm Nghi đến sơn phòng Tân Sở (Quảng Trị). Ngày 13/7/1885, tại Tân Sở, Tôn Thất Thuyết lấy danh nghĩa vua Hàm Nghi hạ chiếu “Cần Vương” lần thứ nhất. Để tránh sự truy lùng của thực dân Pháp, Tôn Thất Thuyết đưa vua Hàm Nghi đến sơn phòng Ấu Sơn (Hà Tĩnh). Tại đây, vua Hàm Nghi đã đích thân xuống chiếu “Cần Vương” lần thứ hai vào ngày 20/9/1885. Nội dung 2 tờ chiếu Cần Vương tập trung tố cáo âm mưu xâm lược Việt Nam của thực dân Pháp, xác định tính chất chính nghĩa của cuộc kháng chiến, nhằm mục đích “diệt trừ giặc Pháp và bọn phản quốc”, đồng thời còn kêu gọi sĩ phu, văn thân và nhân dân cả nước đứng lên kháng chiến phò vua, cứu nước.
Hưởng ứng lời kêu gọi, dưới sự lãnh đạo của văn thân, sỹ phu yêu nước, nhân dân ta trên khắp mọi miền đất nước đã sôi nổi đứng lên chống Pháp và bè lũ tay sai.
Chiếu Cần Vương đánh dấu một mốc mới trong lịch sử kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược của nhân dân Việt Nam cuối thế kỷ XIX. Mặc dù diễn ra dưới danh nghĩa Cần Vương, nhưng thực tế đây là một phong trào đấu tranh yêu nước chống Pháp xâm lược của nhân dân và hoàn toàn không có sự tham gia của quân đội triều đình.
Diễn biến
Phong trào Cần Vương trải qua 2 giai đoạn chính với những tính chất, đặc điểm khác nhau.
Giai đoạn thứ nhất (1885 - 1888)
Đặc điểm của giai đoạn này là phong trào còn đạt đến một trình độ thống nhất dưới sự chỉ huy của vua Hàm Nghi và Tôn Thất Thuyết.
Về mức độ, phong trào bùng nổ rầm rộ, rộng khắp, bao gồm hàng loạt cuộc khởi nghĩa theo quy mô lớn, nhỏ. Địa bàn mở rộng trên phạm vi cả nước từ Thanh Hóa, Nghệ An trở vào đến Quảng Bình, Bình Định. Do đặc điểm là một nước thuộc địa, vùng đất Nam Kỳ bị thực dân Pháp chiếm đóng và thiết lập bộ máy cai trị từ rất sớm nên phong trào đấu tranh không phát triển rầm rộ và quy mô như ở Trung Kỳ và Bắc Kỳ. Tuy nhiên, vẫn có một số cuộc nổi dậy khiến thực dân Pháp và tay sai phải tìm cách đối phó.
Có thể liệt kê một số cuộc khởi nghĩa tiêu biểu ở giai đoạn đầu của phong trào Cần Vương như sau:
+ Phong trào đấu tranh của Mai Xuân Thưởng ở Bình Định. Cùng với các tỉnh khác trong cả nước, tại Bình Định, phong trào Cần Vương chống Pháp do Mai Xuân Thưởng lãnh đạo đã diễn ra một cách sâu rộng. Mai Xuân Thưởng chọn vùng núi Lộc Đỗng (phía tây Phú Phong, nay thuộc thôn Phú Hiệp, thị trấn Phú Phong, huyện Tây Sơn) làm căn cứ kháng chiến. Ông cho truyền hịch khắp nơi, vận động các tầng lớp nhân dân tập hợp về Lộc Đỗng cùng lo việc đại nghĩa “Cần Vương”. Hưởng ứng lời kêu gọi, các nhà hào phú tình nguyện đóng góp lương thực để chi dùng trong quân, trai tráng rủ nhau kéo về Lộc Đỗng đầu quân ngày một thêm đông. Võ tướng, văn thân như các ông Bùi Điền (người Phù Mỹ), Nguyễn Hóa, Trần Trung và Trần Nhã (người Bình Khê), Nguyễn Can, Nguyễn Trọng Trì và Đặng Thành Tích (người An Nhơn) đều ra giúp. Lực lượng kháng chiến suy tôn Mai Xuân Thưởng làm Bình Tây Đại Nguyên Soái. Trong 2 năm 1885 - 1886, phong trào phát triển lớn mạnh, gần như làm chủ được 2 tỉnh Phú Yên và Bình Định. Trước tình hình đó, thực dân Pháp phải tập trung binh lực đàn áp, chúng điều 1.300 quân tấn công vào hầu hết căn cứ của nghĩa quân. Trận chiến diễn ra khốc liệt. Nhưng do vũ khí thô sơ, kỹ năng chiến đấu còn thấp nên phong trào nhanh chóng bị đè bẹp, hầu hết thủ lĩnh nghĩa quân bị bắt. Chỉ còn lại 50 người trung thành với Mai Xuân Thưởng tìm đường sang Phú Yên, tiếp tục gây dựng phong trào. Đến tháng 6/1887, Mai Xuân Thưởng bị chết, phong trào chính thức tan rã.
+ Phong trào đấu tranh của Trần Văn Dự, Nguyễn Huy Diệu, Phan Bá Phiến, Nguyễn Thành ở Quảng Nam. Hưởng ứng phong trào Cần vương, ở Quảng Nam, Trần Văn Dư cùng Nguyễn Duy Hiệu, Phan Bá Phiến, Nguyễn Thành... thành lập Nghĩa hội do Trần Văn Dư làm Hội chủ. Tháng 7/1885, Trần Văn Dư thay mặt Nghĩa hội ra Cáo thị kêu gọi toàn dân trong tỉnh đứng lên chống Pháp. Hai tháng sau, Nghĩa hội chia thành nhiều cánh quân cùng tiến đánh thành tỉnh Quảng Nam đóng ở La Qua (còn gọi là La Thành), buộc các quan bố chánh, tuần phủ, án sát trong thành phải dẫn quân rút chạy. 20 ngày sau, quân thủy bộ của Pháp cùng quân Nam triều mở cuộc tấn công tái chiếm La Thành. Trước lực lượng đông, vũ khí tối tân của đối phương, nghĩa quân quyết định rút về căn cứ Sơn phòng Dương Yên thuộc miền cao của phủ Tam Kỳ. Bị truy kích, đến tháng 10/1885, các căn cứ của Nghĩa hội ở Đại Lộc, Quế Sơn, Tam Kỳ, Dương Yên, An Lâm, Đại Đồng... lần lượt bị thất thủ. Cuối năm 1885, Trần Văn Dư bị giặc giết chết, phong trào chính thức chấm dứt.
+ Phong trào đấu tranh của Lê Trung Đình, Nguyễn Tự Tân ở Quảng Ngãi. Từ cuối năm 1884 đến đầu năm 1885, các đội hương binh ở Quảng Ngãi đã hình thành dưới sự lãnh đạo của Lê Trung Đình và Nguyễn Tự Tân. Hai ông lấy Tuyền Tung làm chiến khu, thu hút sự tham gia của đông đảo nhân sĩ và nhân dân, kể cả một số binh lính đóng trong thành Quảng Ngãi. Ngày 13/7/1885, ngay sau khi tiếp nhận chiếu Cần Vương, Lê Trung Đình cùng Nguyễn Tự Tân nhanh chóng tập hợp dân binh, kêu gọi mọi người đứng lên phò vua, cứu nước. Từ Tuyền Tung và nhiều nơi khác, nghĩa quân tiến về điểm hội quân tại đền Văn Thánh (Văn miếu Quảng Ngãi) sau đó theo lệnh Lê Trung Đình, Nguyễn Tự Tân chia làm 3 mũi đánh chiếm thành Quảng Ngãi. Cuộc khởi nghĩa Cần Vương bị thất bại. Chánh tướng Lê Trung Đình bị bắt, phó tướng Nguyễn Tự Tân hy sinh tại trận.
+ Phong trào đấu tranh của Trương Đình Hội, Nguyễn Tự Như ở Quảng Trị. Sau khi vua Hàm Nghi xuống chiếu Cần Vương, ở Quảng Trị đã diễn ra phong trào đấu tranh do Trương Đình Hội, Nguyễn Tự Như lãnh đạo. Hai ông đã tuyển mộ quân sĩ, chế tạo khí giới, đánh thẳng vào tỉnh thành Quảng Trị, “cướp lấy ấn quan phòng và khí giới, thể rất hoành hành” vào năm 1885. Tiếp đến, nghĩa quân còn đánh phá Phủ lỵ Triệu Phong, đốt giấy tờ, sổ sách, trại lính, khí giới. Sau đó, nghĩa quân kéo về vùng Trạng Mè, núi Rau Khoai (vùng Hà An, Trằm Sắn thuộc huyện Gio Linh) tiếp tục đánh lại quân thù. Nhưng do tình hình chung trong cả nước, phong trào Cần Vương ở Quảng Trị bị đàn áp dữ dội, nghĩa quân ngày càng núng thế. Giặc Pháp và quân đội nhà Nguyễn được liên tục tăng cường để đóng giữ đất đai, càn quét những nơi hiểm yếu, nhất là phía Tây Cam Lộ, Gio Linh. Tháng 12/ 1887, bị truy nã ráo riết, Nguyễn Tự Như cùng 34 người thân cận ra đầu thú. Cuối năm 1887, Trương Đình Hội bị giặc bắt ở Quảng Nam.
+ Ở Quảng Bình điển hình là phong trào của Lê Trực và Nguyễn Phạm Tuân. Lê Trực từng là Đề đốc Hà Nội. Ông đã xây dựng căn cứ kháng Pháp với một lực lượng gồm 2.000 người, hoạt động mạnh ở vùng thượng lưu sông Gianh. Năm 1888, Lê Trực bị Pháp bức ra hàng. Nguyễn Phạm Tuân cũng lập một đội nghĩa quân đông tới 1.000 người, tổ chức đánh Pháp ở miền sông Gianh.
+ Ở Hà Tĩnh có phong trào của Lê Ninh, Phan Đình Phùng, Cao Thắng, sau này phát triển thành cuộc khởi nghĩa Hương Khê rộng lớn.
+ Ở Nghệ An có phong trào đấu tranh của Nguyễn Xuân Ôn, Lê Doãn Nhạ. Hưởng ứng phong trào Cần Vương, mùa Đông năm 1886, Nguyễn Xuân Ôn cùng với một số văn thân như Lê Doãn Nhạ, Nguyễn Nguyên Thành, Trần Quang Diệm, Đinh Nhật Tân tập hợp tướng sĩ làm lễ tế cờ sau đó kéo lên Đồng Thông lập căn cứ kháng chiến lâu dài. Từ Yên Thành, địa bàn hoạt động của nghĩa quân mở rộng ra các huyện Diễn Châu, Anh Sơn, Con Cuông, Thanh Chương, Nghi Lộc… Nghĩa quân có trên 2000 người, được huấn luyện chu đáo, ngay từ buổi đầu đã đánh các trận phục kích hiệu quả ở Yên Lý, Cầu Bùng, tiếp đến là các trận bao vây diệt viện ở Cửa Lộng, Đồng Mờm, Tràng Thành, Bảo Nham… làm cho kẻ thù nhiều lần khiếp sợ. Cuối năm 1886, nghĩa quân kéo xuống tấn công chớp nhoáng đồn Pháp gần chợ Si (cạnh Quốc lộ 1) thuộc Diễn Châu rồi lui về giữa Đồng Thông. Năm 1887, nghĩa quân còn đánh nhau với giặc mấy trận ở vùng Sừng, Mọ, xóm Hố thuộc vùng Tây Bắc huyện Yên Thành.
+ Thanh Hóa hình thành các đội nghĩa quân của Phạm Bành, Đinh Công Tráng, Tống Duy Tân và Cao Điển, sau này phát triển thành khởi nghĩa Ba Đình.
+ Tại vùng Đồng bằng Bắc Bộ có phong trào của Đề đốc Tạ Hiện (Thái Bình), Nguyễn Thiện Thuật (Hải Dương) sau này phát triển thành khởi nghĩa Bãi Sậy.
Cuối năm 1888, do sự phản bội của Trương Quang Ngọc, vua Hàm Nghi bị bắt. Sự kiện này gây tâm lý hoang mang trong hàng ngũ các sĩ phu văn thân yêu nước. Tuy nhiên, không phải vì thế mà phong trào tan rã. Trái lại, phong trào đấu tranh vũ trang chống thực dân Pháp xâm lược vẫn tiếp tục phát triển và hình thức những trung tâm kháng chiến lớn.
Giai đoạn thứ hai (1888 - 1896)
Giai đoạn này không còn sự chỉ đạo của triều đình kháng chiến nhưng phong trào vẫn tiếp tục phát triển quyết liệt, quy tụ ở một số trung tâm lớn như Hương Sơn - Hương Khê ở Hà Tĩnh; Ba Đình - Hùng Lĩnh ở Thanh Hóa; Bãi Sậy - Hai Sông (Hải Dương - Hưng Yên).
Có thể liệt kê một số cuộc khởi nghĩa tiêu biểu ở giai đoạn thứ hai của phong trào Cần Vương như sau:
Khởi nghĩa Bãi Sậy (1883 - 1892)
Bãi Sậy là một trong những trung tâm chống Pháp lớn nhất nước ta cuối thế kỷ XIX. Từ năm 1883 - 1885, cuộc khởi nghĩa do Đinh Gia Quế lãnh đạo, địa bàn chủ yếu ở Văn Lâm, Văn Giang, Khoái Châu, Yên Mỹ tỉnh Hưng Yên. Từ năm 1885 trở đi, Nguyễn Thiện Thuật là người lãnh đạo chính của cuộc khởi nghĩa. Nguyễn Thiện Thuật sinh năm 1844 ở Xuân Dục - Mỹ Hào - Hưng Yên. Ông từng đỗ cử nhân và ra làm quan được phong chức Tán lý quân vụ (nên ông thường được gọi là Tán Thuật).
Tháng 7/1885, nghe tin vua Hàm Nghi ra chiếu Cần Vương, ông về quê tổ chức phong trào chống Pháp. Ông tập hợp nhiều đội quân nhỏ trong vùng và các địa phương lân cận, hình thành một phong trào có quy mô lớn nhất khu vực Đồng Bằng Bắc Bộ. Dưới quyền ông có các tướng lĩnh chỉ huy các đội nghĩa quân phối hợp hoạt động trên nhiều địa bàn khác nhau: Nguyễn Thiện Kế và Nguyễn Thiện Dương hoạt động ở vùng Mỹ Hào; Phạm Văn Khoát, Ba Điều ở Vĩnh Bảo; Nguyễn Đức Hiệu (Đốc Tít), Vương Văn Vang (Đội Văn) ở khu vực Hai Sông (Hải Dương).
Địa bàn hoạt động chủ yếu mở rộng khắp hai tỉnh Hưng Yên và Hải Dương, một phần các tỉnh Bắc Ninh, Hải Phòng, Quảng Yên.
Đặc điểm của nghĩa quân Bãi Sậy là không tổ chức thành các đội quân lớn mà phân tán thành các đội quy mô nhỏ cùng hoạt động rải rác khắp nơi. Mỗi đội quân chia thành từng toán từ 20 - 25 người đi vào các làng lẫn với dân. Dựa vào dân làng, nghĩa quân đào hào đắp lũy để chống giặc càn quét và bảo vệ lực lượng.
Vũ khí, trang bị: Chủ yếu là những vũ khí thô sơ như giáo mác, mã tấu, đinh ba, gậy gộc. Nghĩa quân còn sản xuất được cả loại súng theo mẫu súng trường của Pháp.
Phương thức tác chiến: Chủ yếu là đánh du kích, lấy ít địch nhiều, lấy vũ khí thô sơ chống lại vũ khí hiện đại, đánh chớp nhoáng, phục kích chặn đường...
Bên cạnh chống càn quét, nghĩa quân còn tổ chức nhiều trận tập kích nhiều phen làm cho thực dân pháp kịnh hoàng như trận tấn công đồn Pháp ở Cầu Đuống; tấn công đồn Bần Yên Phú; Kẻ Sặt - Hải Dương, Lang Tài (Bắc Ninh), Dương Hòa (Hưng Yên)… Trước hoạt động lớn mạnh của nghĩa quân, thực dân Pháp phải tập trung lực lượng tiêu diệt. Chúng cho Tổng đốc Hoàng Cao Khải đem quân đi đàn áp cuộc khởi nghĩa. Mặc dù chiến đấu rất dũng cảm nhưng do sự chênh lệch về lực lượng chiến đấu và vũ khí trang bị, lực lượng nghĩa quân giảm sút. Tuy thất bại, nhưng cuộc khởi nghĩa để lại nhiều bài học quý báu về lối đánh du kích ở một vùng đồng bằng đất hẹp người đông.
Khởi nghĩa Ba Đình (1886 - 1887)
Lãnh đạo cuộc khởi Ba Đình là Phạm Bành và Đinh Công Tráng. Về danh nghĩa, Phạm Bành là chỉ huy cao nhất của căn cứ Ba Đình nhưng quyền chỉ đạo trực tiếp về quân sự nằm trong tay Đinh Công Tráng người làng Tràng Xá, huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam.
Căn cứ Ba Đình cách huyện lỵ Nga Sơn 4km, tây bắc giáp huyện Hà Trung, được xây dựng trên 3 làng Thượng Thọ, Mậu Thịnh và Mỹ Khê. Gọi là Ba Đình vì mỗi làng có một ngôi đình, từ làng này có thể nhìn thấy đình hai làng kia. Vào mùa mưa, căn cứ này như hòn đảo lớn nổi giữa cánh đồng nước mênh mông. Bao bọc xung quanh căn cứ là một lũy tre dày đặc và hệ thống hào rộng. Phía trong thành có hệ thống giao thông hào để vận chuyển lương thực. Ở những nơi xung yếu đều có công sự vững chắc. Các hầm chiến đấu được xây dựng theo hình chữ chi nhằm hạn chế thương vong khi chiến đấu. Ở mỗi làng đều xây dựng đồn đóng quân để có thể hỗ trợ nhau trong kháng chiến đồng thời có thể chiến đấu độc lập.
Về tổ chức: Nghĩa quân Ba Đình có khoảng 300 người, có cả người kinh và đồng bào dân tộc thiểu số. Nghĩa quân chia làm 10 toán, mỗi toán do 1 hiệp quản chỉ huy, được trang bị súng hỏa mai, giáo mác, cung nỏ.
Hoạt động chủ yếu: Chặn đánh các đoàn xe vận tải và các toán quân lính trên đường hành quân. Trước hoạt động sôi nổi của nghĩa quân, cuối năm 1886, chúng tập trung 500 quân, có đại bác yểm trợ tấn công trực tiếp vào căn cứ Ba Đình nhưng thất bại. Ngày 6/1/1887, Brissaud đã điều động khoảng 2.500 quân chia làm 3 mũi với sự yểm trợ của pháo binh đánh vào căn cứ Ba Đình. Tuy nhiên, trước sự kháng cự quyết liệt của nghĩa quân, quân Pháp bị chặn đứng lại trước lũy tre bao quanh căn cứ.
Bị thất bại liên tiếp, chính phủ Pháp yêu cầu phải sớm chấm dứt chiến dịch đánh chiếm Ba Đình. Vì vậy, Brissaud quyết định công phá căn cứ này bằng mọi giá. Y cho tiến hành việc lấn dần từng bước hòng cô lập căn cứ, chấm dứt nguồn tiếp tế của nghĩa quân, ngày càng thắt chặt vòng vây, đến ngày 15/1/1887 thì hạ lệnh tổng tiến công. Quân Pháp đổ dầu vào lũy tre, cùng lúc tập trung bắn đại bác vào tạo thành một vành đai lửa khủng lồ xung quanh căn cứ.
Nghĩa quân càng ngày bị hao tổn và cô lập. Biết không thể giữ được căn cứ, Phạm Bành và Đinh Công Tráng cùng các chỉ huy khác tổ chức cho nghĩa quân rút về căn cứ Mã Cao vào đêm 20/1/1887. Sáng hôm sau, quân Pháp vào chiếm Ba Đình, nhưng nghĩa quân đã rút hết, chỉ còn lại những đống lửa âm ỉ cháy, một số thi thể các chiến sỹ đã ngã xuống trong cuộc chiến. Chúng điên cuồng triệt hạ cả 3 làng Thượng Thọ, Mậu Thịnh, Mỹ Khê, đồng thời bắt triều đình Huế xóa sổ 3 làng vì tội ủng hộ nghĩa quân.
Nghĩa quân vừa rút lên Mã Cao, chưa kịp củng cố lực lượng đã bị quân Pháp đuổi sát truy kích. Ngày 2/2/1887, chúng tiến đánh căn cứ. Do tương quan lực lượng chênh lệch, nghĩa quân phải rút lên Thung Voi và Thung Khoai để bảo toàn lực lượng nhưng vẫn không trụ lại được các đợt tấn công dồn dập của kẻ thù nên chuyển lên miền Tây Thanh Hóa sáp nhập vào đội nghĩa quân của thủ lĩnh người Thái là Cầm Bá Thước.
Mặc dù thất bại, nhưng khởi nghĩa Ba Đình có ý nghĩa quan trọng cổ vũ tinh thần nhân dân trong cả nước, khiến thực dân Pháp phải dồn quân đánh trả. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến sự thất bại của cuộc khởi nghĩa, trực tiếp là do chiến thuật phòng ngự bị động với việc lập cứ điểm cố thủ trên tuyến đường huyết mạch Bắc – Nam – nơi mà thực dân Pháp sẽ phải chiếm đóng bằng bất cứ giá nào. Hơn nữa, với lối đánh chiến tuyến cố định, nghĩa quân sẽ dễ dàng bị cô lập khi đối phương bao vây tấn công.
Khởi nghĩa Hùng Lĩnh (1887 - 1892)
Khởi nghĩa Hùng Lĩnh khởi phát năm 1887 (có sách ghi năm 1886) tại Hùng Lĩnh (Vĩnh Lộc, Thanh Hóa), ngay sau khi căn cứ Ba Đình và Mã Cao lần lượt thất thủ. Lãnh đạo chính là Chánh sứ sơn phòng Thanh Hóa Tống Duy Tân cùng hai cộng sự đắc lực là Đề đốc Cao Điền và tù trưởng người Thái Cầm Bá Thước. Tháng 10/1892, Tống Duy Tân bị bắt, cuộc khởi nghĩa kết thúc.
Sau khi căn cứ Ba Đình thất thủ, Tống Duy Tân - người có vai trò nhất định trong cuộc khởi nghĩa Ba Đình đã cùng với Cao Điển liên hệ với các thủ lĩnh như Tôn Thất Hàng, Cầm Bá Thước hình thành nên trung tâm kháng chiến Hùng Lĩnh thuộc huyện Vĩnh Lộc tỉnh Thanh Hóa.
Về tổ chức, nghĩa quân xây dựng mỗi huyện 1 cơ lính khoảng 20 người, lấy tên huyện đặt tên cho đơn vị như Tống Thanh Cơ (Nga Sơn), Nông Thanh Cơ (Nông Cống). Thời gian đầu nghĩa quân chỉ mở được vài trận tập kích, rồi bị quân Pháp dẫn quân đến vây đánh.
Thấy lực lượng mỏng, Tống Duy Tân ra Bắc rồi sang Trung Quốc để gặp gỡ các sỹ phu yêu nước, tìm nguồn hỗ trợ và liên kết với các lực lượng kháng Pháp khác. Đầu năm 1889, Tống Duy Tân về đến quê nhà. Sau khi tập hợp lực lượng, ông cùng Cao Điền và Cầm Bá Thước cho quân mở rộng địa bàn hoạt động lên tận vùng hữu ngạn và tả ngạn sông Mã, phối hợp với Đề Kiều - Đốc Ngữ ở vùng hạ lưu sông Đà, với Phan Đình Phùng ở Nghệ An - Hà Tĩnh, với Hà Văn Nho tại châu Quan Hóa và với Tôn Thất Hàn ở Nông Cống.
Ngày 8/10/1889, được tin Tống Duy Tân hoạt động mạnh ở Hùng Lĩnh, trưởng đồn Nông Công là thiếu úy Monrfond liền đem 4 lính Pháp và 20 lính khố xanh đến dò xét. Gần tới nơi, quân Pháp vấp phải sự chống trả mạnh mẽ của quân Hùng Lĩnh. Sau một hồi đọ súng, quân đồn Nông Cống rút lui, 4 lính Pháp và 4 lính khố xanh tử trận. 3 ngày sau, khoảng 180 quân Pháp ở Thanh Hóa rầm rộ kéo đến tấn công. Sau cuộc va chạm này, đối phương thiệt hại hàng chục tên lính mà không triệt hạ được cứ điểm.
Ngày 22/10, từ Thanh Hóa, đại tá Barbaret dẫn 185 quân có trang bị đại bác tiến lên Hùng Lĩnh, nhưng Tống Duy Tấn đã kịp cho quân rút hết về Đa Lộc, một cứ điểm hiểm yếu hơn. Barbaret lập tức cho quân truy đuổi. Đến ngày 2/11, hai bên xảy ra đụng độ suốt 2 ngày và đều bị thiệt hại nặng. Do chênh lệch lực lượng mạnh mẽ, để tránh thiệt hại thêm về lực lượng, Tống Duy Tân phải cho quân lui về phía Bắc Phố Cát rồi sang Vạn Lại (Vạn Ninh, Thọ xuân). Cuối tháng 10/1889, đội quân của Trần Xuân Soạn tìm đến gia nhập. Nhờ vậy, nghĩa quân Hùng Lĩnh nhanh chóng phục hồi được khả năng chiến đấu.
Trước sự phát triển mạnh của nghĩa quân, cuối tháng 11/1889, trung tá Lefevre mang quân tấn công Vạn Lại nhưng bị nghĩa quân Hùng Lĩnh đánh trọng thương phải rút về Yên Lược. Nhân thắng lợi,Tống Duy Tân cho quân chia làm 4 cánh tấn công đồn Yên Lược, cuộc chiến đấu diễn ra hơn 2 tiếng, kết quả nghĩa quân đốt cháy được đồn Yên Lược.
Liên tiếp bị tổn thất nặng, Pháp điều thêm 500 lính cùng 2 khẩu đại bác đến chi viện và cử Trung tá Jorne de Lacale cầm quân. Trưa ngày 1/1/1890, quân Pháp bắt gặp nghĩa quân đang ở làng Kẽm, chúng lập tức cho các đại bác Pháp nổ súng khoảng gần 1 tiếng để phá chiến lũy, mở đường cho bộ binh . Hai quân đánh trả quyết liệt. Kết thúc, hai bên đều bị thương nặng.
Vài hôm sau, được tin mật thám báo tin có khoảng 200 quân Hùng Lĩnh do Cao Điền chỉ huy đang hành quân, Pháp liền dẫn quan đến vây đánh nhưng bị đánh bạt về Nông Cống. Sau trận thắng này, đề đốc Cao Điền dẫn quân về Yên Lãng. Ngày 29/3, quân Pháp từ Nông Cống và thành tỉnh Thanh Hóa kéo đại bác đến vây đánh Yên Lãng. Trận này, quân Hùng Lĩnh bị thua, ngoài số thương vong còn mất đi viên chánh tổng Yên Lãng.
Từ tháng 3/1890, quân Pháp tiếp tục truy quét nhằm tiêu diệt nghĩa quân. Địa bàn hoạt động của nghĩa quân bị thu hẹp, chỉ còn lại ở vùng miền núi phía Tây Thanh Hóa. Sự phối hợp với cánh quân Đốc Ngữ ở vùng Sông Đà cũng không thu được kết quả. Lực lượng nghĩa quân ngày càng sa sút.
Do tên việt gian Cao Ngọc Lễ chỉ điểm, tháng 10/1892, Tống Duy Tân bị Pháp bắt, sau đó đưa về tỉnh lị Thanh Hóa xử chém. Còn Cao Điển phải trốn ra Bắc, tham gia kháng chiến với nghĩa quân Yên Thế, nhưng vừa tới Bắc Giang đã bị bắt (1896).
Với sự kiện này, khởi nghĩa Hùng Linh coi như đã thất bại. Ở Thanh Hóa chỉ còn cánh quân của Cầm Bá Thước đang hoạt động ở miền Tây. Nhưng đến năm 1895, Cầm Bá Thước cũng bị bắt. Phong trào chống Pháp ở Thanh Hóa tan rã.
Về chiến thuật của Tống Duy Tân có nhiều điểm tương đồng với chiến thuật của Đinh Công Tráng ở khởi nghĩa Ba Đình. Tức là chọn một địa điểm hiểm yếu, xâu dựng chiến khu vững chắc rồi tiêu diệt đối phương. Hạn chế của chiến dịch này ở chỗ, khi lực lượng của đối phương mạnh nghĩa quân sẽ khó bảo toàn được lực lượng.
Dù cuộc khởi nghĩa thất bại nhưng qua đó, khởi nghĩa Hùng Lĩnh đã thực hiện được sự đoàn kết rộng rãi của mọi tầng lớp dân tộc. Trong hàng ngũ nghĩa quân, ngoài người Kinh còn có đông đảo người Mường, người Thái.
Khởi nghĩa Hương Khê (1885 - 1896)
Khởi nghĩa Hương Khê phát triển qua 2 thời kỳ: Thời kỳ xây dựng, tổ chức (1885 - 1888) và thời kỳ chiến đấu (1889 - 1896)
Địa bàn hoạt động: Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình
Lãnh tụ cuộc khởi nghĩa là Phan Đình Phùng và Cao Thắng. Phan Đình Phùng (1847 - 1895) quê ở làng Đông Thái, huyện Đức Thọ, Hà Tĩnh, đã từng đỗ tiến sỹ năm 1877. Lúc đầu, ông được cử làm Tri huyện Yên Khánh (Ninh Bình), sau làm Ngự sử ở Viện Đô Sát. Khi triều đình kháng chiến về Hà Tĩnh, ông đã lên yết kiến vua Hàm Nghi và Tôn Thất Thuyết (10/1885) và được giao trọng trách tổ chức phong trào kháng chiến ở Hà Tĩnh.
Ngay sau khi vua Hàm Nghi xuống chiếu Cần Vương, trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh đã bùng nổ nhiều phong trào đấu tranh vũ trang lẻ tẻ. Trên cơ sở đó, Phan Đình Phùng đã tập hợp và phát triển thành một phong trào có quy mô rộng lớn khắp 4 tỉnh Bắc Trung Kỳ, với địa bàn chính là Hương Khê (Hà Tĩnh).
Dựa vào địa thế núi rừng hiểm trở của các tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, nghĩa quân đã xây dựng được 4 căn cứ lớn:
+ Cồn chùa (xã Sơn Lâm, huyện Hương Sơn), án ngữ con đường sang Nghệ An, nơi cất giấu lương thực và rèn đúc vũ khí.
+ Thượng Bồng - Hạ Bồng (tây nam Đức Thọ), được xây dựng dựa vào địa thế 2 sông Ngàn Sâu và Ngàn Trươi. Trong căn cứ này có nhiều hệ thống hào lũy, đồn trại, kho lương, bãi tập. Đây là căn cứ lớn nhất của nghĩa quân trong thời kỳ đầu.
+ Trùng Khê – Trí Khê: (Hai xã Hương Ninh và Hương Thọ, huyện Hương Sơn) là căn cứ dự bị, phòng khi bị bao vây, có đường rút sang Lào.
+ Vụ Quang: (phía tây Hương Khê) nằm sâu trong vùng núi, giáp nước Lào. Được xây dựng dựa trên địa thế tự nhiên hiểm trở, căn cứ lớn nhất trong những năm cuối khởi nghĩa của nghĩa quân.
- Về tổ chức, nghĩa quân chia thành 15 quân thứ, các quân thứ được xây dựng trên cơ sở các đơn vị hành chính, thường là huyện hoặc xã và lấy ngay tên đó để gọi:
Hà Tĩnh có 10 quân thứ, bao gồm:
+ Khê thứ (huyện Hương Khê). Chỉ huy: Nguyễn Toại.
+ Can thứ (huyện Can Lộc). Chỉ huy: Nguyễn Chanh và Nguyễn Trạch.
+ Hương thứ (huyện Hương Sơn). Chỉ huy: Nguyễn Huy Giao.
+ Nghi thứ (huyện Nghi Xuân). Chỉ huy: Ngô Quảng và Hà Văn Mỹ.
+ Lai thứ (huyện Can Lộc). Chỉ huy: Phan Đình Nghinh.
+ Cẩm thứ (huyện Cẩm Xuyên). Chỉ huy: Hoàng Bá Xuyên.
+ Thạch thứ (huyện Thạch Hà). Chỉ huy: Nguyễn Huy Thuận.
+ Kỳ thứ (huyện Kỳ Anh). Chỉ huy: Võ Phát.
+ Diệm thứ (làng Tình Diệm, huyện Hương Sơn). Chỉ huy: Cao Đạt.
+ Lễ thứ (làng Trung Lễ, huyện Đức Thọ). Chỉ huy: Nguyễn Cấp.
Nghệ An có 2 quân thứ, bao gồm:
+ Anh thứ (huyện Anh Sơn). Chỉ huy: Nguyễn Mậu.
+ Diễn thứ (huyện Diễn Châu). Chỉ huy: Lê Trọng Vinh.
Quảng Bình có 2 quân thứ, bao gồm:
+ Bình thứ (tỉnh Quảng Bình). Chỉ huy: Nguyễn Thu.
+ Lệ thứ (huyện Lệ Thủy). Chỉ huy: Nguyễn Bí.
Thanh Hóa có 1 quân thứ:
+ Thanh thứ (Thanh Hóa). Chỉ huy: Cầm Bá Thước.
Trong số 15 quân thứ, có 1 quân thứ trung tâm đóng ở đại bản doanh do Phan Đình Phùng trực tiếp chỉ huy, còn các quân thứ khác đóng quân ở địa phương, thường xuyên liên lạc với nhau để đảm bảo sự thống nhất.
- Về trang bị vũ khí: Ngoài các vũ khí thô sơ (giáo, mác, đại đao…), tướng Cao Thắng còn tổ chức cướp súng giặc, nghiên cứu chế súng trường theo kiểu của Pháp để tự trang bị, nâng cao hiệu suất chiến đấu.
-Về phương thức tác chiến: Nghĩa quân dựa vào địa thế núi rừng hiểm trở với hệ thống công sự chằng chịt để tiến hành chiến tranh du kích, luôn hoạt động phân tán, đánh bằng nhiều hình thức linh hoạt và chủ động như công đồn, chặn đường tiếp tế, dùng cạm bẫy, hầm chông…
- Diễn biến:
+ Từ đầu năm 1889, nghĩa quân bắt đầu đẩy mạnh hoạt động trên khắp địa bàn Nghệ - Tĩnh, liên tục tập kích, diệt viện và chống càn quét. Giữa tháng 12/1889, nghĩa quân tấn công đồn Dương Liễu, tiếp đó đánh vào huyện lỵ Hương Sơn. Tháng 4/1890, quân của Nguyễn Chanh và Nguyễn Trạch phục kích tại làng Hốt (xã Phú Lộc, Can Lộc) diệt nhiều lính khố xanh, tháng 5 tấn công đồn Trường Lưu. Đến những tháng cuối năm đó, nghĩa quân đã tổ chức hàng chục trận đánh đồn, phục kích, diệt viện và chống càn quét.
Phối hợp với nghĩa quân Hà Tĩnh, nghĩa quân Nghệ An cũng hoạt động mạnh trên một vùng rộng bao gồm các huyện Diễn Châu, Yên Thành, Thanh Chương, Nghi Lộc… bất ngờ tiến sâu vùng đồng bằng tấn công quân Pháp.
Trong những năm 1891 - 1892, dù thực dân Pháp bình định được Hà Tĩnh và Nghệ An, nghĩa quân vẫn tiếp tục chiến đấu quyết liệt. Tiêu biểu là 2 trận chống càn quét vào khu Hói Trùng và Ngàn Sâu là căn cứ của Cao Thắng vào đầu tháng 8/1892.
Để phản công lại, đêm 23/8, nghĩa quân do Bá hộ Thuận chỉ huy đã bí mật tập kích tại thị xã Hà Tĩnh, phá nhà lao giải thoát hơn 700 tù nhân. Tuy nhiên, sau nhiều cuộc càn quét, quân Pháp đã tạo nên thế bao vây nghĩa quân. Trong tình thế đó, Phan Đình Phùng và Cao Thắng quyết định mở một trận tấn công lớn vào tỉnh lỵ Nghệ An nhằm phá tan thế bao vây và mở rộng địa bàn hoạt động.
Thực hiện kế hoạch trên, tháng 10/1893, Cao Thắng đem 1.000 quân từ Ngàn Trươi tiến sâu vào vùng đồng bằng Nghệ An. Trên đường hành quân, nghĩa quân tổ chức đánh quân Pháp liên tiếp và giành được một số thắng lợi mở đầu. Nhưng trong trận tấn công đồn Nu, Cao Thắng trúng đạn hy sinh gây nhiều tổn thất cho nghĩa quân. Cuối tháng 3/1894, nghĩa quân tập kích vào thị xã Hà Tĩnh. Quân Pháp vừa tăng cường khủng bố, vừa dồn lực lượng bao vây và công kích đại bản doanh. Trước tình hình đó, nghĩa quân phải rút lên núi Quạt rồi Vụ Quang.
Tháng 10/1884, nghĩa quân đánh thắng trận lớn tại Vụ Quang. Phan Đình Phùng cho nghĩa quân đốn gỗ đóng kè chặn nước đầu nguồn và chuẩn bị nhiều gỗ lớn trên sông. Khi quân Pháp vượt sông vừa đến giữa dòng thì ông cho phá kè. Nước đổ xuống ào ào, kéo theo những cây gỗ lớn. Quân Pháp bị gỗ từ trên cao lao mạnh xuống người, lại bị phục kích nên bị thiệt hại lớn. Tuy thắng trận đấu này, nhưng nghĩa quân bị thiệt hại nhiều, quân số ngày càng giảm sút.
Vào thời điểm này, triều đình Huế cử Nguyễn Thân đem 3.000 quân bao vây căn cứ Vụ Quang. Trong 1 trận chiến ác liệt, Phan Đình Phùng bị thương và hy sinh. Khởi nghĩa Hương Khê chỉ còn đội quân của Ngô Quảng ở miền Tây Nghệ An, sau đó ít ngày cũng bị thực dân Pháp đàn áp.
- Ý nghĩa: Cuộc khởi nghĩa Hương Khê thất bại, đánh dấu sự thất bại chung của phong trào đấu tranh chống Pháp trên phạm vi cả nước dưới danh nghĩa Cần Vương. Đây là cuộc khởi nghĩa được đánh giá là đỉnh cao nhất trong phong trào Cần Vương với phạm vi kéo dài trên 4 tỉnh Thanh - Nghệ - Tĩnh - Bình trong suốt 10 năm. Nghĩa quân đã tranh thủ được sự giúp đỡ của người Kinh và người Thượng, của cả đồng bằng và miền núi.
Về quân sự, đã biết sử dụng phương án tác chiến linh hoạt, phong phú, biết phát huy tính chủ động, tinh thần sáng tạo trong quá trình chuẩn bị lực lượng.
- Nguyên nhân thất bại: Cũng giống như các cuộc khởi nghĩa khác, khởi nghĩa Hương Khê thất bại chủ yếu do chưa liên kết, tập hợp được lực lượng dân tộc trên quy mô toàn quốc. Kẻ thù sau khi đàn áp xong các phong trào ở trong Nam ngoài Bắc đã có điều kiện tập trung lực lượng vào việc đàn áp phong trào. Phong trào tuy thất bại nhưng đã tô thắm thêm truyền thống anh hùng, bất khuất của dân tộc Việt Nam.
Đặc điểm, tính chất, nguyên nhân thất bại, ý nghĩa lịch sử của phong trào Cần Vương
Đặc điểm, tính chất của phong trào Cần Vương
- Mục tiêu: Mục tiêu cao nhất của phong trào Cần Vương là chống thực dân Pháp, khôi phục lại chế độ phong kiến.
- Lãnh đạo: Tầng lớp lãnh đạo chủ yếu trong phong trào là văn thân, sĩ phu yêu nước. Một số cuộc khởi nghĩa đã có những người tài giỏi xuất thân từ nông dân tham gia lãnh đạo bên cạnh các văn thân sĩ phu, tiêu biểu là Cao Thắng bên cạnh Phan Đình Phùng trong cuộc khởi nghĩa Hương Khê, Cao Điền bên cạnh Tống Duy Tân trong cuộc khởi nghĩa Hùng Lĩnh.
- Lực lượng tham gia: Văn thân, sĩ phu yêu nước, nông dân.
- Hình thức đấu tranh: Các cuộc khởi nghĩa trong phong trào Cần Vương đều đấu tranh theo phương thức vũ trang bạo động. Tuy nhiên, mỗi cuộc khởi nghĩa, căn cứ vào địa bàn cụ thể, các nhà lãnh đạo lại sử dụng một hình thức đấu tranh riêng. Cuộc khởi nghĩa Bãi Sậy tận dụng địa bàn rộng lớn ở đồng bằng Bắc Bộ để tiến hành cuộc chiến tranh du kích với căn cứ chính ở Hưng Yên - Hải Dương và các tỉnh thuộc tả ngạn sông Hồng; khởi nghĩa Ba Đình lại dựa vào điều kiện tự nhiên để xây dựng hệ thống phòng thủ kiên cố; cuộc khởi nghĩa Hương Khê lại lợi dụng địa thế hiểm trở của núi rừng để đánh giặc.
Nguyên nhân thất bại
Nguyên nhân chủ quan:
- Mục tiêu chưa phù hợp: Dù chống Pháp nhưng mục tiêu cuối cùng của phong trào Cần Vương là khôi phục chế độ phong kiến đã lỗi thời. Khẩu hiệu Cần Vương chỉ đáp ứng một phần trước mắt yêu cầu của dân tộc, còn về cơ bản chưa giải quyết và chưa đáp ứng được một cách triệt để yêu cầu khách quan của sự tiến bộ xã hội cũng như nguyện vọng sâu sắc của nhân dân muốn thoát khỏi sự bóc lột của chế độ phong kiến, tiến lên một xã hội tốt đẹp hơn.
- Phong trào Cần Vương diễn ra tuy mạnh mẽ, trên quy mô rộng lớn, có tính chất toàn quốc, lực lượng tham đông đảo gây cho Pháp nhiều khó khăn song nhìn chung các cuộc khởi nghĩa trong phong trào Cần Vương diễn ra lẻ tẻ, rời rạc, thiếu sự chỉ huy thống nhất, nặng về thủ hiểm mà chưa có sự phối hợp chặt chẽ giữa các cuộc khởi nghĩa để thống nhất lực lượng tạo ra sức mạnh tổng hợp. Trong khi đó, thực dân Pháp đã hoàn thành ách cai trị ở Việt Nam, có điều kiện tập trung lực lượng đánh bại các cuộc khởi nghĩa riêng lẻ.
- Những người lãnh đạo phong trào Cần Vương chưa chú ý bồi dưỡng sức dân để đấu tranh lâu dài, trang bị vũ khí còn thô sơ.
Nguyên nhân khách quan:
Đối tượng chiến đấu của cuộc khởi nghĩa là thực dân Pháp - một đế quốc đang trên đà phát triển, hơn hẳn chúng ta về phương tiện và kỹ thuật chiến đấu. Hơn nữa, về cơ bản chúng đã hoàn thành công cuộc bình định nước ta. Nên cuộc chiến đấu của nhân dân ta gặp rất nhiều khó khăn.
Ý nghĩa lịch sử của phong trào Cần Vương
- Mặc dù thất bại, nhưng phong trào Cần Vương có tác dụng cổ vũ mạnh mẽ tinh thần đấu tranh của nhân dân ta.
- Phong trào thể hiện tinh thần yêu nước bất khuất, ý chí quật cường của nhân dân ta mà chủ yếu là nông dân nhằm thực hiện mục tiêu cao cả chống thực dân Pháp cứu nguy cho Tổ quốc.
Tài liệu tham khảo
1. Đỗ Bang (2016), Biến cố kinh đô Huế và phong trào Cần Vương (1885 – 1896), Nxb. Tri Thức, 2017.
2. Đinh Xuân Lâm, Nguyễn Văn Khánh, Nguyễn Đình Lễ (2006), Đại cương Lịch sử Việt Nam tập 2, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
3. Nguyễn Phan Quang (1995), Việt Nam cận đại – Những sử liệu mới tập 1, Nxb. Hồ Chí Minh, Hồ Chí Minh.
4. Hoàng Minh Tường (2016), Về khởi nghĩa Ba Đình và Phong trào Cần Vương chống Pháp ở Thanh Hóa, Nxb. Thanh Hóa, Thanh Hóa.
5. Viện Hàn lâm khoa học xã hội, Viện sử học, Tạ Thị Thúy (2016), Lịch sử Việt Nam tập 7, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.