Mục từ này đã đạt chất lượng ở mức sản phẩm bước đầu của Đề án Biên soạn Bách khoa toàn thư Việt Nam giai đoạn 1
Lão hoá

Lão hoá , bắt đầu từ tuổi trung niên, quá trình hoạt động của cơ thể bị hao mòn dần, biểu hiện sự suy giảm đồng bộ về thể chất, tinh thần và chức năng, thường xẩy ra vào những năm 70 tuổi. Tuy nhiên, tuổi thọ tăng lên, có thể tới 120 tuổi. Trong suốt nửa sau cuộc đời, cá nhân dễ gặp phải các vấn đề về rối loạn các chức năng trong cơ thể và phát triển một số bệnh lý mạn tính. Hệ thống tim mạch, tiêu hóa, bài tiết, thần kinh, sinh sản, tiết niệu đều dễ bị ảnh hưởng. Các bệnh phổ biến của lão hóa bao gồm Alzheimer, viêm khớp, ung thư, đái tháo đường, trầm cảm, bệnh tim.

Cụ già Ann Pouder (8 tháng 4 năm 1807 - 10 tháng 7 năm 1917) là một trong những người sống thọ nhất thế giới. Ảnh được chụp trong ngày sinh nhật lần thứ 110 của cụ. Những nếp nhăn của tuổi tác hằn rõ trên mặt là một trong những dấu hiệu của quá trình lão hóa.

Mô tả[sửa]

Con người đạt đỉnh của sự lớn lên và phát triển vào khoảng giữa những năm 20 tuổi của cuộc đời. Lão hóa là khoảng thời gian chuyển tiếp sau quá trình ngắn ngủi đó. Mặc dù, có khá nhiều sự thay đổi liên quan đến tuổi nhưng khuyết tật không là một phần của lão hóa. Các yếu tố: sức khỏe, lối sống và cấu trúc di truyền của từng người quyết định những thay đổi đó. Các chức năng thường bị thay đổi bởi tuổi tác bao gồm:

- Thính lực giảm, đặc biệt liên quan với những âm độ cao.

- Tỷ lệ chất béo so với cơ có thể lên tới 30%. Thông thường, tổng lượng chất béo nằm dưới da mỏng dần và tập chung tích tụ ở bụng. Khả năng đào thải chất béo giảm đi, do đó mà sự tích tụ chất béo tăng lên, bao gồm cholesterol và các chất hòa tan trong chất béo.

- Giảm nước trong cơ thể, dẫn đến việc giảm hấp thu các chất hòa tan trong nước, giảm nước bọt và các chất dịch bôi trơn khác.

- Chức năng gan và thận hoạt động kém hiệu quả, do đó nó ảnh hưởng tới sự đào thải chất thải.

- Giảm khả năng tiêu hóa, cùng với sự giảm sản xuất acid dạ dày.

- Mất sức mạnh và phối hợp vận động của cơ, giảm sự nhanh nhẹn và linh hoạt.

- Giảm hormon sinh sản và khả năng sinh sản.

- Giảm cảm giác vị giác và khứu giác

- Hệ thống tim mạch và hô hấp thay đổi, làm giảm oxy và chất dinh dưỡng tới khắp cơ thể.

- Làm giảm chức năng của hệ thống thần kinh, xung động thần kinh không được dẫn truyền một cách hiệu quả, phản xạ không được sắc bén, trí nhớ và khả năng học tập bị suy giảm

- Giảm sức mạnh của xương và mật độ xương.

- Suy giảm hormon, đặc biệt là hormon tuyến giáp và sinh dục.

- Suy giảm khả năng thị giác. Những thay đổi liên quan tới tuổi có thể dẫn tới thoái hóa điểm vàng.

- Giảm khả năng tổng hợp vitamin D từ ánh áng mặt trời.

- Giảm sự hình thành cấu trúc protein dẫn tới tình trạng co rút khối cơ, giảm hình thành xương, có thể dẫn đến loãng xương.

Nguyên nhân[sửa]

Có rất nhiều giả thuyết để giải thích tại sao cơ thể lão hóa lại giảm chức năng. Nó có thể do nhiều yếu tố cùng tác động hoặc có 1 yếu tố cụ thể nào đó hoạt động nhiều hơn trong một cá thể nhất định :

- Chương trình lão hóa hay đồng hồ lão hóa. Sự lão hóa của các tế bào của mỗi cá nhân được lập trình bởi gene, và có sẵn một lượng tế bào trẻ hóa có thể tồn tại trong chu kì sống của một tế bào nhất định. Khi các tế bào chết nhanh hơn chúng được thay thế.

- Thuyết di truyền. Các tế bào trong cơ thể duy trì mầm mống sự lão hóa của chính nó ở cấp độ nhiễm sắc thể

- Mô liên kết hoặc thuyết liên kết ngang. Những sự thay đổi trong hình thành mô liên kết làm thay đổi sự ổn định trong cấu trúc cơ thể, gây ra mất sự đàn hồi và chức năng, từ đó dẫn đến các triệu chứng của lão hóa.

- Thuyết gốc tự do. Nó giữ vài trò phổ biến nhất trong thuyết lão hóa, dựa trên cơ sở là các phản ứng hóa học diễn ra ở trong các tế bào sản xuất ra các gốc tự do. Với sự hiện diện của oxy, các gốc tự do phá hủy các tế bào trong cơ thể. Thời gian sau đó, các tế bào chết đi nhiều hơn và mất dần khả năng hoạt động, và cơ thể nhanh chóng ngừng tất cả các hoạt động.

- Thuyết miễn dịch. Có rất nhiều sự thay đổi trong hệ thống miễn dịch, bắt đầu bằng sự mệt mỏi, cơ thể dễ bị nhiễm trùng, và mô bị phá hủy. Ngoài ra khi hệ thống miễn dịch bị phá hủy, cơ thể dễ xuất hiện các phản ứng miễn dịch tự động, trong đó các tế bào trong chính cơ thể có thể bị nhầm lẫn với vật thể lạ, và bị phá hủy bới chính hệ thống miễn dịch.

Chẩn đoán[sửa]

Nhiều vấn đề có thể xảy ra trong cơ thể do sự thay đổi liên quan với tuổi tác. Một thăm khám lâm sàng kĩ lưỡng và một số xét nghiệm máu cơ bản, có thể cho thấy một số cơ quan cần được chú ý hơn. Khi người già bị ốm yếu, những dấu hiệu đầu tiên của bệnh tật thường không đặc hiệu, Một số đấu hiệu thường xuất hiện: giảm hoặc thiếu sự ham muốn vể ăn uống, sự nhầm lẫn tăng lên, tiểu tiện không tự chủ, chóng mặt, giảm cân, suy sụp cơ thể …

Điều trị[sửa]

Phần lớn, các bác sĩ kê đơn để kiểm soát triệu chứng và bệnh tât của lão hóa. Tại Mỹ, khoảng 2/3 ngưởi từ 65 tuổi trở lên sử dụng thuốc do rất nhiều các chứng bệnh. Phụ nữ dùng thuốc này nhiều hơn nam giới. Các thuốc được sử dụng phổ biến ở ngưởi cao tuổi là thuốc giảm đau, lợi tiểu, thuốc an thần, thuốc tim mạch, thuốc kháng sinh, thuốc sức khỏe tinh thần.

Liệu pháp thay thế estrogen : là phương pháp phổ biến được kê đơn cho phụ nữ ở giai đoạn mạn kinh có triệu chứng lão hóa. Nó thường được sử dụng kết hợp với progesterone. Liệu pháp thay thế estrogen giúp giữ xương vững chắc, giảm nguy cơ bệnh lý tim mạch, sự bôi trơn âm đạo được hồi phục, cải thiện sự đàn hồi của da, nó còn giúp duy trì các hoạt động chức năng tinh thần.

Các vitamin tổng hợp : được khuyến cáo sử dụng. Sự thiếu hụt các dinh dưỡng phổ biến liên quan tới lão hóa bao gồm vitamin B, vitamin A và C, a xit folic, canxi, mage, kẽm, sắt, crom và các khoáng chất vi lượng. Vì a xit trong dạ dày có thể bị giảm, nên các vitamin tổng hợp ở dạng bột được đặt trong viên nang gelatin, để đễ tiêu hóa.

Chất chống oxy hóa : có thể giúp ngăn cản các tổn thương do hoạt động của các gốc tự do tác động tới vấn đề lão hóa. Chúng rất hiệu quả trong việc phòng ngừa và điều trị ung thư, đục thủy tinh thể, tăng nhãn áp. Các chất chống oxy hóa bao gồm:

- Vitamin E 400- 1000 UI/ ngày. Bảo vệ màng tế bào chống lại tổn thương. Nó cho thấy được sự hứa hẹn trong điểu trị bệnh tim, Alzheimer, Parkinson.

- Selen 50 mg x 2 lần mỗi ngày. Nó có thể có vai trò giúp làm giảm nguy cơ ung thư.

- Beta- caroten, 25.000- 40.000 mỗi ngày. Có thể giúp điều trị ung thư, cảm lạnh, cúm, hộ trợ miễn dịch.

- Vitamin C 1000- 2000 mg mỗi ngày. Có thể gây tiêu chảy với lượng lớn, trong trường hợp đó thì cần giảm liều.

Các sản phẩm bổ sung khác có thể giúp điều trị các vấn đề liên quan tới tuổi bao gồm:

- Vitamin B12/ B- complex. Có thể giúp làm giảm các triệu chứng về tâm thần như: lú lẫn, mất trí nhớ, trầm cảm.

- Coenzym Q10. Có thể giúp hỗ trợ điều trị bệnh lý tim mạch, có đến khoảng ¾ bệnh nhân tim mạch bị thiếu enzym tim này.

Hormon liệu pháp: có thể được sử dụng để dự phòng và điều trị nhiều các vấn đề liên quan tới tuổi tác. Tuy nhiên, cần thận trọng, bệnh nhân cần tham khảo chuyên gia chăm sóc sức khỏe của mình.

DHEA (Dehydroepiandrosterone) cải thiện chức năng não bộ và đóng vai trò sản xuất nhiều hormon quan trọng khác trong cơ thể. Nó có thể giúp hồi phục lượng hormon bị suy giảm, xây dựng khối cơ bắp, củng cố xương vững chắc, duy trì một trái tim khỏe mạnh.

Methatonin có thể có ích cho chứng mất ngủ. Nó cũng có thể được sử dụng để giúp chống lại sự nhiễm virus và vi khuẩn, giảm nguy cơ mắc bệnh tim mạch, cải thiện khả năng tình dục, bảo vệ cơ thể chống lại ung thư.

Hormon trưởng thành (hGH) được chứng minh có tác dụng điều chỉnh mức độ đường máu, kích thích xương, sụn và cơ trưởng thành đồng thời giúp giảm béo.

Thảo mộc : Tỏi có tác dụng dự phòng bệnh lý tim mạch cũng như cải thiện màu sắc và cấu trúc da. Tỏi kích thích chức năng gan và hệ thống tiêu hóa, đồng thời giúp đối phó với bệnh lý tim mạch và huyết áp cao.

Nhân sâm hỗ trợ tuyến thượng thận và chức năng miễn, có ích trong điều trị các vấn đề liên quan tới stress. Nhân sâm cũng làm tăng hiệu quả tinh thần và thể chất, và có tác dụng trong điều trị mất trí nhớ, mệt mỏi mạn tính, rối loạn chức năng miễn dịch.

Proanthocyanidins hoặc PCO là pyenogenol có trong hạt và vỏ nho, vỏ cây thông, có thể dự phòng ung thư và thị lực kém.

Trong y học Ayurvedic, lão hóa được mô tả là quá trình tăng vata, nó có xu hướng trở nên mỏng hơn, khô hơn, hồi hộp hơn, bồn chồn hơn, sợ hãi hơn, đồng thời mất cảm giác ngon miệng cũng như giấc ngủ. Chuối, hạnh nhân,bơ, dừa là những thực phẩm được sự dụng để điều chỉnh những tình trạng như vậy. Một trong những loại thảo dược chính được sử dụng cho những tình trạng đó là rau má (Centella asiatica) chúng được sử dụng để hồi sình hệ thống thần kinh tế bào não, và củng cố hệ thống miễn dịch. Rau má cũng được sử dụng để điều trị mất trí nhớ, chứng lo lắng, và mất ngủ.

Trong y học Trung Quốc, hầu hết các triệu chứng được coi như là triệu chứng thiếu hụt âm khí. Các thực phẩm làm ẩm như là hạt kê, súp lúa mạch, đậu phụ, đậu xanh, mầm lúa mì, tảo xoắn, vừng đen, hạt óc chó, hạt lanh được khuyến nghị. Thuốc bổ cũng được sử dụng. Chúng bao gồm: sừng hươu, thỏ ti tử (hạt dây tơ hồng), địa hoàng, súp trường thọ, trai, gà.

Kết quả[sửa]

Lão hóa là quá trình khó tránh, nhưng sự suy giảm nghiêm trọng về thể chất thì không. Con người có thể có một cuộc sống khỏe mạnh, không có một khuyết tật trong những năm tháng cuối đời. Một hệ thống hỗ trợ tốt cho gia đình, bạn bè, và các chuyên gia chăm sóc sức khỏe, cùng với việc tập chung vào dinh dưỡng tốt, lối sống phù hợp, sự quản lý tốt stress, có thể ngăn chặn bệnh tật và làm giảm tác động của bệnh lý mạn tính.

Phòng chống[sửa]

Thực hành phòng chống như là bữa ăn lành mạnh, thể dục hằng ngày, quản lý stress, điều chỉnh phong cách sống như: hút thuốc, uống rượu có thể giúp kéo dài tuổi thọ, cải thiện chất lượng cuộc sống khi già đi. Thể dục có thể cải thiện sự thèm ăn, sức khỏe của xương, vẻ ngoài của cảm xúc, tinh thần, tiêu hóa, tuần hoàn.

Uống nhiều nước giúp duy trì làn da khỏe mạnh, chức năng tiêu hóa tốt, loại bỏ chất thái thích hợp. Nên uống tới 8 ly nước mỗi ngày kèm theo cùng với các loại trà thảo mộc, nước hoa quả và rau loãng, trái cây tươi và thực vật có hàm lượng nước cao. Vì sự suy giảm về vị giác, người già thường ăn mặn, góp phần gây tăng huyết áp, mất dinh dưỡng. Lượng đường cũng được sử dụng tăng lên. một lượng nhỏ mật ong có thể được sử dụng thay thế.

Rượu, nicotine, caffein đều có những tác động tiềm ẩn nên được giới hạn hoặc được loại bỏ hoàn toàn. Một chế độ ăn nhiều xơ và giảm lượng chất béo được khuyến nghị. Thực phẩm chế biến nên được thay thế bằng ngũ cốc nguyên hạt. Nếu việc nhai trở thành vấn đề nên tăng lượng protein đường uống, nước trái cây và rau tươi, ngũ cốc dạng kem.

Tài liệu tham khảo[sửa]

  1. "Anti-Aging-Nutritional Program." http://www.healthy.net/hwlibrarybooks/haas/perform/ antiagin.htm.
  2. "Effects of Hormone in the Body." http://www.antiaging.org/Effects_hGH.html.
  3. "The Elderly-Nutritional Programs." http://www.healthy.net/hwlibrarybooks/haas/lifestage/elderly.htm.
  4. "Evaluating the Elderly Patient: The Case for Assessment Technology." http://text.nlm.nih.gov/nih/ta/www/ 01.html.
  5. "Herbal Phytotherapy and the Elderly." http:// www.healthy.net/hwlibrarybooks/hoffman/ elders/elders.htm.
  6. "Pharmacokinetics." Merck & Co., Inc. (1995-2000). http://www.merck.com/pubs/mmanual/section22/ chapter304/304a.htm.
  7. "To a Long and Healthy Life." http://www.healthy.net/hwlibraryarticles/aesoph/longandhealthy.htm.