Mục từ này đã đạt chất lượng ở mức sản phẩm bước đầu của Đề án Biên soạn Bách khoa toàn thư Việt Nam giai đoạn 1
Chiến tranh Mỹ - Anh (1812 - 1815)
Lời tuyên chiến của Hoa Kỳ
Lời đáp trả của Isaac Brock sau khi Hoa Kỳ tuyên chiến
Tòa Quốc hội Hoa Kỳ còn dang dở (chưa xây xong) sau trận đốt cháy Washington. Tranh sơn nước và mực từ năm 1814 được trùng tu lại
Bản đồ chuyến đi đầu tiên của tàu USS Chesapeake trong cuộc chiến tranh 1812. Các đường biên giới lấy theo hiện tại.
Tàu USS Constitution đánh bại tàu HMS Guerriere, một sự kiện quan trọng trong chiến tranh.
Tàu HMS Shannon dẫn chiếc USS Chesapeake bị bắt của Hoa Kỳ vào cảng Halifax, Nova Scotia (1813)
Quân Anh đánh chiếm thành phố Washington. Tranh khắc năm 1814.

Chiến tranh Mỹ - Anh (1812 - 1815) cuộc chiến giành độc lập lần thứ hai của người Mỹ, cuộc chiến tranh đầu tiên của Mỹ với tư cách một quốc gia, khẳng định tiềm lực và sức mạnh của Mỹ trong việc đảm bảo vị thế ở châu Mỹ.

Anh bắt giữ tàu thương mại Mỹ buôn bán với Pháp, giam cầm các thủy thủ và ép họ phục vụ cho Hải quân hoàng gia trong chiến tranh Napoleon. Phong trào đòi tự do thương mại trên biển và quyền của các thủy thủ bùng nổ tại Mỹ. Tổng thống Jefferson không muốn chiến tranh với Anh, ra lệnh cấm hoạt động ngoại thương của Mỹ, gây tổn hại kinh tế quốc gia nghiêm trọng. Những di dân Mỹ mới đến vùng phía tây, vùng Sông Mississippi cho rằng người Anh ở Canada hậu thuẫn người bản địa chống lại mình nên kêu gọi chiến tranh chống lại Anh.

Những xung đột giữa hai nước đã diễn ra trước khi chiến tranh chính thức nổ ra. Ngày 1.5.1811, tàu Hoàng gia Anh HMS Guerriere đã dừng tàu Mỹ Spitfire tại New Jersey. Ngày 16.5, Mỹ tấn công tàu Little Belt của Anh tại Bắc Carolina. Tháng 9.1811, Anh ngăn cản buôn bán của Mỹ ở vùng Tây Ấn thuộc Anh, phong tỏa các cảng biển của Mỹ, tăng quân số ở Canada để chuẩn bị chiến tranh.

Ngày 18.6.1812, Tổng thống Madison ký tuyên bố chiến tranh. Những bất đồng lớn nảy sinh trong Nghị viện, Chính phủ Liên bang và giữa các bang khác nhau của Mỹ. Phe chiến tranh được các bang miền Nam và miền Tây ủng hộ. Phe Dân chủ phản đối chiến tranh. Nghị viện Mỹ không thực sự chuẩn bị cho chiến tranh. Quân đội Liên bang nhỏ bé, trang bị kém; ngân sách chiến tranh hạn chế. Chính phủ phải vay tiền ngân hàng để bù lấp.

Tháng 7.1812, Mỹ tấn công vùng thượng Canada (vùng hồ Erie và Ontario). Mỹ thắng một loạt trận, kiểm soát được vùng hồ Erie. Năm 1813, Mỹ kiểm soát phần lớn thượng Canada. Tướng Andrew Jackson tấn công người bản địa ở Creek và chiếm được vùng đất rộng 40.000 dặm vuông.

Thất bại của Napoleon năm 1814 giúp Anh rảnh tay đối phó Mỹ. Anh đôt kích vịnh Chesapeake (Maryland), New York, chiếm vùng ven biển Maine và phong tỏa các cảng biển của Mỹ. Anh tấn công thủ đô Washington D.C ngày 24.8.1814, đốt phá tòa nhà Quốc hội, Nhà trắng và nhiều văn phòng khác.

Xu thế phản đối chiến tranh tăng mạnh ở Mỹ: phe Dân chủ phản đối chiến tranh và lệnh cấm buôn bán; phe Cộng hòa phản đối chính phủ chia rẽ và thiếu hiệu quả. Chính phủ Mỹ tuyên bố phá sản sau khi ngân hàng không đồng ý cho vay tiền phục vụ chiến tranh. Cuối năm 1814, phe Dân chủ họp tại Connecticut, tìm cách ký hòa ước riêng với Anh nhưng thất bại. James Monroe quyết định tấn công hạ Canada và chiếm Montreal. Ông dự định xây dựng quân đội Liên bang hùng mạnh. Nghị viện đồng ý bổ sung 40.000 lính cho quân đội Liên bang trong một năm nếu các Thống đốc bang đồng ý.

Anh-Mỹ đã tổ chức đàm phán hòa bình tại Ghent (Bỉ). Đại diện Mỹ, John Quincy Adams và Henry Clay, yêu cầu Anh thả thủy thủ Mỹ, rút khỏi một phần Canada. Anh từ chối yêu cầu trên, đề nghị xây dựng vùng đệm giữa Canada và Mỹ. Tháng 9.1814, Anh thất bại ở pháo đài McHenry (Baltimore), bị đẩy ra khỏi New York. Anh đã chán ngán với việc kéo dài chiến tranh và đồng ý ký hiệp ước Ghent ngày 24.12.1814. Mỗi bên đều quay về tình trạng trước chiến tranh, duy trì hòa bình với người Mỹ bản địa vốn là kẻ thù của họ trước đó.

Ngày 8.1.1815, Andrew Jackson thắng trận cuối cùng, lớn nhất, đẫm máu nhất tại New Orleans khi tin tức về hiệp định Ghent chưa về đến Mỹ, chấm dứt mọi tham vọng của Anh trong việc chiếm vùng ven biển và cửa sông Mississippi. Chiến tranh Mỹ - Anh chính thức chấm dứt.

Chiến tranh chứng minh Mỹ có thể đứng vững trong cuộc chiến với một cường quốc châu Âu. Biên giới Mỹ - Canada được duy trì và người Mỹ tiếp tục mở rộng về phía tây bắc. Đây là dấu mốc quan trọng giúp thay đổi chính quyền Liên bang Mỹ. Madison cải cách chính quyền Liên bang, chỉnh sửa Hiến pháp, củng cố quyền lực trung ương. Quân đội Liên bang đã mở rộng sau chiến tranh nhưng tình trạng chia rẽ giữa các bang vẫn tiếp diễn, người bản địa tiếp tục bị mất lãnh thổ.

Tài liệu tham khảo[sửa]

  1. Brian Arthur, How Britain won the war of 1812: The Royal Navy’s Blockades of the United States, 1812-1815 (Người Anh thắng cuộc chiến tranh 1814 như thế nào: Việc phong tỏa nước Mỹ của hải quân hoàng gia 1812-1815), Boydell & Brewer, Boydell Press, 2011.
  2. Donald R. Hickey, The war of 1812: A short history (Sơ lược lịch sử Chiến tranh 1812), University of Illinois Press, 2012.
  3. John B. Hattendorf, Economic Warfare and the Sea: Grand Strategies for Maritime Powers, 1650-1945 (Kinh tế chiến tranh và các vùng biển: Đại chiến lược cho những cường quốc biển, 1650-1945), Liverpool University Press, 2020.