Mục từ này đã đạt chất lượng ở mức sản phẩm bước đầu của Đề án Biên soạn Bách khoa toàn thư Việt Nam giai đoạn 1
Abraham harold Maslow (1908 - 1970)
Tập tin:Abraham harold Maslow (1908 - 1970).jpg
Abraham harold Maslow (1908 - 1970)

Abraham harold Maslow (1908 - 1970) là nhà tâm lý học người Mỹ, nhân vật trung tâm của Tâm lý học nhân văn về những tiềm năng con người. Abraham Maslow là một nhà tâm lý học người Mỹ được biết đến nhiều nhất đối với việc đưa ra hệ thống cấp bậc của nhu cầu, lý thuyết về sức khỏe tâm lý xác định trên việc thực hiện nhu cầu ưu tiên, mà đỉnh cao là quá trình tự hiện thực hóa.

Sự nghiệp của Maslow[sửa]

Maslow là giáo sư tâm lý học tại Đại học Quốc tế Alliant, Đại học Brandeis, Cao đẳng Brooklyn, Trường Nghiên cứu Xã hội mới và Đại học Columbia. Ông nhấn mạnh tầm quan trọng của việc tập trung vào những phẩm chất tích cực ở con người, thay vì coi họ như một “túi triệu chứng”. Một cuộc khảo sát về Tâm lý học đại cương công bố năm 2002 đã xếp hạng Maslow là nhà tâm lý học thứ mười được trích dẫn nhiều nhất trong thế kỷ XX.

Tuổi trẻ, học tập và sự nghiệp Maslow sinh năm 1908 và lớn lên ở Brooklyn, New York. Maslow học trường trung học nam sinh, một trong những trường trung học hàng đầu ở Brooklyn. Tại đây, Maslow là thành viên chủ chốt của nhiều câu lạc bộ học thuật và trở thành biên tập viên của Tạp chí La tinh. Đây là một điều kiện để phát triển năng lực của Maslow.

Maslow theo học trường cao đẳng thành phố New York sau khi tốt nghiệp trung học. Sau đó, Maslow tốt nghiệp trường cao đẳng thành phố và theo học cao học tại Đại học Wisconsin để nghiên cứu Tâm lý học. Khóa đào tạo tâm lý học của Maslow tại Đại học Wisconsin chủ yếu là đào tạo nhà hành vi thực nghiệm. Tại Wisconsin, Maslow theo đuổi một hướng nghiên cứu về điều tra hành vi thống trị của linh trưởng và tình dục. Trải nghiệm ban đầu của Maslow về chủ nghĩa hành vi đã để lại cho ông một tư duy thực chứng mạnh mẽ.

Maslow nhận được bằng Tiến sĩ tâm lý học tại Đại học Wisconsin năm 1934. Sau đó ông bắt đầu nghiên cứu Y học. Nhưng Maslow đã ngừng nghiên cứu lĩnh vực này sau một năm, sau đó Maslow nhận được học bổng nghiên cứu sau tiến sĩ để làm việc với Edward Thorndike tại Đại học Columbia.

Sau khi chuyển đến New York, Maslow đã gặp gỡ nhiều nhà khoa học xã hội châu Âu nổi tiếng đã chạy trốn khỏi Đức Quốc xã. Một số người trong số những người di cư này đã trở thành cố vấn của ông, bao gồm các nhà phân tâm học Alfred Adler, Erich Fromm, Karen Horney và các nhà tâm lý học Gestalt như Max Wertheimer (1880 - 1943) và Kurt Koffka (1886 - 1941).

Năm 1937, Maslow bắt đầu giảng dạy tại Trường Cao đẳng Brooklyn. Theo sự thúc giục của nhà nhân loại học Ruth Benedict (1887 - 1948), người mà Maslow đã gặp tại Columbia. Maslow đã dành cả mùa hè năm 1938 để nghiên cứu thực địa trong một khu dân cư của người da đỏ Blackfoot ở Alberta, Canada, với sự hỗ trợ tài chính từ Hội đồng Nghiên cứu Khoa học Xã hội. Cuộc sống gia đình và những trải nghiệm đã ảnh hưởng đến những ý tưởng tâm lý của ông. Sau Chiến tranh Thế giới lần thứ hai, Maslow bắt đầu đặt câu hỏi về cách các nhà tâm lý học đưa ra kết luận của họ. Mặc dù không hoàn toàn đồng ý, nhưng ông có ý tưởng riêng về cách hiểu tâm trí con người. Ông gọi hướng nghiên cứu mới của mình là Tâm lý học nhân văn.

Maslow không đủ điều kiện tham gia quân đội. Tuy nhiên, sự khủng khiếp của chiến tranh đã truyền cảm hứng cho tầm nhìn về hòa bình. Điều này dẫn ông đến những nghiên cứu tâm lý mang tính đột phá về việc tự hiện thực hóa bản thân. Các nghiên cứu bắt đầu dưới sự giám sát của hai cố vấn, nhà nhân chủng học Ruth Benedict và nhà tâm lý học Gestalt Max Wertheimer - những người mà ông ngưỡng mộ cả về chuyên môn và cá nhân. Đây là cơ sở cho nghiên cứu và suy nghĩ suốt đời của ông về sức khỏe tâm thần và tiềm năng con người. Ông mở rộng chủ đề này, sử dụng ý tưởng từ các nhà tâm lý học khác và bổ sung những ý tưởng mới. Chẳng hạn như các khái niệm về hệ thống phân cấp nhu cầu, định lượng, siêu năng lực, con người tự hiện thực hóa và trải nghiệm đỉnh cao. Maslow là giáo sư và người đứng đầu Khoa Tâm lý học tại Đại học Brandeis từ năm 1951 đến năm 1969, một năm trước khi ông qua đời vào năm 1970. Ông trở thành thành viên chính thức của Viện Laughlin ở California (Laughlin Institute in California).

Tâm lý nhân văn của Maslow[sửa]

Hầu hết các nhà tâm lý học trước Maslow đã quan tâm đến những người bất thường và bệnh tật của con người. Ông kêu gọi mọi người thừa nhận các nhu cầu cơ bản của họ trước khi giải quyết các nhu cầu cao hơn và cuối cùng là tự hiện thực hóa.

Maslow muốn biết điều gì tạo nên sức khỏe tinh thần tích cực của con người. Tâm lý học nhân văn đã làm nảy sinh một số liệu pháp khác nhau, tất cả đều được hướng dẫn bởi ý tưởng rằng con người sở hữu các nguồn lực bên trong để tăng trưởng và chữa bệnh. Quan điểm của liệu pháp là giúp loại bỏ những trở ngại đối với việc cá nhân đạt được chúng. Nổi tiếng nhất trong số này là liệu pháp lấy khách hàng làm trung tâm. Các nguyên tắc cơ bản của tâm lý học nhân văn:

  1. Hoạt động hiện tại của ai đó là khía cạnh quan trọng nhất của họ. Các nhà nhân văn nhấn mạnh đến hiện tại, thay vì xem xét quá khứ hoặc cố gắng dự đoán tương lai.
  2. Để khỏe mạnh về mặt tinh thần, các cá nhân phải chịu trách nhiệm cá nhân về hành động của mình, bất kể hành động đó là tích cực hay tiêu cực.
  3. Mỗi người, đơn giản bởi bản thân vốn dĩ đã rất xứng đáng. Mặc dù bất kỳ hành động nhất định nào có thể là tiêu cực, nhưng những hành động này không làm mất đi giá trị của một con người.
  4. Mục tiêu cuối cùng của cuộc sống là đạt được sự phát triển và hiểu biết cá nhân. Chỉ khi không ngừng cải thiện bản thân và hiểu rõ bản thân thì một cá nhân mới có thể hạnh phúc thực sự.

Lý thuyết Tâm lý nhân văn phù hợp với những người nhìn thấy mặt tích cực và tin vào ý chí của con người. Lý thuyết này rõ ràng trái ngược với Lý thuyết quyết định sinh học của S. Freud. Một ưu điểm quan trọng khác của Lý thuyết Tâm lý nhân văn là nó tương thích với các trường phái tư tưởng khác. Hệ thống phân cấp của Maslow cũng có thể áp dụng cho các chủ đề khác. Chẳng hạn như tài chính, kinh tế học hoặc thậm chí trong lịch sử hoặc tội phạm học. Tâm lý học nhân văn, cũng còn được gọi là Tâm lý học tích cực.

Các nhà tâm lý học nhân văn tin rằng mỗi người đều có mong muốn mãnh liệt để nhận ra hết tiềm năng của mình, đạt đến mức độ “tự hiện thực hóa”. Điểm chính của phong trào mới, đạt đến đỉnh cao vào năm 1960, là nhấn mạnh tiềm năng tích cực của con người. Maslow đã liệt kê ra một danh sách những người năng động và thành công trong lịch sử mà ông coi là những “người tự hiện thực hóa”, bao gồm: Thomas Jefferson (1743 - 1826), Abraham Lincoln (1809 - 1865), Jane Addams (1860 - 1935), Albert Einstein (1879 - 1955) và Eleanor Roosevelt (1884 - 1962).

Trải nghiệm đỉnh cao và bình nguyên[sửa]

Ngoài thói quen đáp ứng nhu cầu thông thường, Maslow đã hình dung ra những khoảnh khắc trải nghiệm phi thường, được gọi là “Trải nghiệm đỉnh cao” của con người. Đó là những khoảnh khắc sâu sắc của tình yêu, sự hiểu biết, hạnh phúc hoặc sung sướng, trong đó cá nhân cảm thấy toàn diện hơn, sống động, tự lập hơn và là một phần của thế giới, nhận thức rõ hơn về sự thật, công lý, hòa hợp, tốt đẹp, v.v. Những người tự thực tế hóa có nhiều khả năng có những trải nghiệm đỉnh cao. Nói cách khác, những “trải nghiệm đỉnh cao” là sự phản ánh việc nhận thức tiềm năng con người của một người và thể hiện tầm cao của sự phát triển nhân cách.

Trong các tác phẩm sau này, Maslow đã chuyển sang một mô hình hòa nhập hơn. Bên cạnh những trải nghiệm đỉnh cao mãnh liệt có những khoảng thời gian dài hơn của nhận thức về sự thanh thản của bản thân mà ông gọi là trải nghiệm “bình nguyên” (plateau experiences). Ông đã mượn thuật ngữ này từ nhà khoa học và học viên yoga người Ấn Độ, UA Asrani, người mà ông đã trao đổi thư từ. Maslow tuyên bố rằng sự thay đổi từ trải nghiệm đỉnh cao sang trải nghiệm bình nguyên có liên quan đến quá trình lão hóa tự nhiên, trong đó một cá nhân có sự thay đổi về giá trị sống, về những gì thực sự quan trọng trong cuộc sống của một người và những gì không quan trọng. Mặc dù có ý nghĩa cá nhân với trải nghiệm bình nguyên, Maslow không thể tiến hành một nghiên cứu toàn diện về hiện tượng này do các vấn đề sức khỏe vào cuối đời ông.

Tháp thứ bậc nhu cầu[sửa]

Thứ bậc nhu cầu của Maslow được biểu thị như một kim tự tháp với những nhu cầu cơ bản hơn ở phía dưới. Maslow đã mô tả nhu cầu của con người được sắp xếp theo thứ bậc sẵn có - những nhu cầu cấp bách hơn được thỏa mãn trước, tiếp đó đến những nhu cầu cao hơn. Trong các tác phẩm của mình, ông không đưa ra hình ảnh về tháp nhu cầu, có thể do một nhà xuất bản nào đó đã vẽ ra tháp này để minh họa về thứ bậc nhu cầu của con người. Tháp thứ bậc nhu cầu của Maslow gồm các nhu cầu theo thứ bậc sau:

  1. Ở cấp độ dưới cùng là “Nhu cầu cơ bản hoặc nhu cầu sinh lý” của một con người: thức ăn, nước uống, giấc ngủ, tình dục, cân bằng nội môi và bài tiết.
  2. Ở cấp độ tiếp theo là “Nhu cầu An toàn: an ninh, trật tự và ổn định”. Hai cấp độ nhu cầu này rất quan trọng đối với sự sống còn về thể chất của con người. Một khi các cá nhân có dinh dưỡng cơ bản, nơi ở và sự an toàn, họ sẽ cố gắng hoàn thành nhiều việc hơn.
  3. Cấp độ thứ ba là nhu cầu “Yêu và được yêu”. Đây là những nhu cầu tâm lý. Khi các cá nhân đã chăm sóc bản thân về mặt thể chất, họ sẵn sàng chia sẻ bản thân với những người khác. Chẳng hạn như với gia đình và bạn bè.
  4. Cấp độ thứ tư là nhu cầu được “Thừa nhận”. Nhu cầu này đạt được khi cá nhân cảm thấy thoải mái với những gì họ đã hoàn thành. Đây là cấp độ cần phải có năng lực và được công nhận. Chẳng hạn như thông qua địa vị và mức độ thành công. Sau đó là cấp độ “Nhận thức”, nơi các cá nhân tự kích thích trí tuệ và khám phá. Tiếp theo là cấp độ “Thẩm mỹ”, là nhu cầu về sự hài hòa, trật tự và cái đẹp.
  5. Ở đỉnh của kim tự tháp là “Nhu cầu tự hiện thực hóa” xảy ra khi các cá nhân đạt đến trạng thái hòa hợp và thấu hiểu, bởi vì họ đang tham gia vào việc đạt được toàn bộ tiềm năng của mình. Khi một người đã đạt đến trạng thái tự hiện thực hóa, họ tập trung vào bản thân và cố gắng xây dựng hình ảnh của chính mình. Họ có thể nhìn nhận vấn đề này dưới góc độ cảm xúc như sự tự tin hoặc bằng cách hoàn thành một mục tiêu đã đặt ra.

Bốn cấp độ đầu tiên được gọi là nhu cầu Thâm hụt hoặc D - nhu cầu. Điều này có nghĩa là nếu chúng ta không có đủ một trong bốn nhu cầu đó, chúng ta sẽ có cảm giác rằng cần phải có được nó. Nhưng khi có được chúng, ta sẽ cảm thấy mãn nguyện. Những nhu cầu này không phải là động cơ thúc đẩy.

Tài liệu tham khảo[sửa]

  1. Vũ Dũng (Chủ biên), Từ điển Tâm lý học, Nxb. Từ điển bách khoa, 2008, tr. 158 - 159.
  2. Brookman, David M. Maslow's Hierarchy and Student Retention, NACADA Journal, Vol. 9, No 1, Spring, 1989, pp. 69 - 74.
  3. Richard L. Schott, Abraham Maslow, humanistic psychology, and organization leadership: A Jungian perspective, Journal of Humanistic Psychology, 32, DOI: 10.1177/0022167892321008. S2CID145356419, 1992, pp. 106 - 120.
  4. Kazdin A.E. (Editor in chief), Encyclopedia of Psychology: 8 volume set, APA Publishing, Oxford University Press, Vol. 7, 2000, pp. 87 - 91.
  5. Strickland B. (Executive editor), The Gale Encyclopedia of Psychology, Gale Group, 2001, pp. 199.
  6. Nicholson, Ian (February), Giving up maleness: Abraham Maslow, masculinity, and the boundaries of psychology, History of Psychology, 4 (1), DOI: 10.1037/1093-4510.4.1.79, 2001, pp. 79 - 91.
  7. Hoffman, E., Abraham Maslow: A Biographer's Reflection, Journal of Humanistic Psychology,

48 (4), DOI: 10.1177/0022167808320534. S2CID 144442841, 2008, pp. 439 - 443.