Đồng hoá là một quá trình nhận thức, tiếp nhận thông tin mới và kết hợp thông tin mới này vào kiến thức hiện có của chúng ta.
Khái niệm này được Jean Piaget, nhà tâm lý học phát triển người Thụy Sĩ đưa ra trong lý thuyết phát triển nhận thức của mình.
Theo Piaget đồng hóa là một khía cạnh của sự thích ứng. Ví dụ, khi một đứa trẻ nhỏ học từ dog cho vật nuôi trong gia đình, cuối cùng nó bắt đầu xác định mọi loài chó trông giống nhau đều là con chó. Đứa trẻ đã mở rộng việc học của mình, hoặc đồng hóa khái niệm chó để bao gồm tất cả những người bạn 4 chân tương tự. Đối với Piaget, đồng hóa có nghĩa là tích hợp các yếu tố bên ngoài vào các cấu trúc của cuộc sống hoặc môi trường, hoặc những yếu tố mà chúng ta có thể có thông qua kinh nghiệm. Đồng hóa là cách con người nhận thức và thích nghi với thông tin mới. Đó là quá trình gắn thông tin mới vào các lược đồ nhận thức đã có từ trước.
Đồng hóa là quá trình học hỏi và thích nghi với môi trường của một người. Đồng hóa bao gồm việc tiếp nhận thông tin mới và kết hợp nó vào những cách suy nghĩ hiện có về thế giới. Ngược lại, thích nghi tác động đến quá trình thay đổi những ý tưởng hiện có của một người để thích ứng với thông tin mới. Chẳng hạn, khi một đứa trẻ sơ sinh lần đầu tiên học cách uống sữa từ cốc, trẻ sẽ cố gắng kết hợp trải nghiệm mới (uống bằng cốc) vào cách ăn (bú) sữa. Khi thấy cách này không hiệu quả đứa trẻ sẽ thay đổi cách uống sữa của mình bằng cách thích ứng với hành động uống sữa với cốc.
Quá trình kép của thích nghi và đồng hóa dẫn đến sự hình thành và thay đổi các lược đồ, khái quát hóa về thế giới được hình thành từ kinh nghiệm trong quá khứ và được sử dụng để hướng dẫn một người qua những trải nghiệm mới.
Để hiểu rõ hơn có sự liên quan giữa đồng hóa và quá trình nhận thức, chúng ta nên xem xét kỹ hơn cách thức mà Piaget tin rằng sự liên quan này tạo ra các cấu trúc tinh thần để tiếp nhận thông tin mới khi chúng ta tiếp xúc với nó. Piaget đã sử dụng thuật ngữ lược đồ để chỉ một loại kiến thức mà chúng ta đang nắm giữ, nó giúp cho chúng ta hiểu về thế giới đang sống và cung cấp một số hướng dẫn cho các sự kiện trong tương lai. Một lược đồ sẽ mô tả cách chúng ta tổ chức thông tin. Chúng ta lưu trữ thông tin dưới dạng một lược đồ cụ thể để sử dụng nó khi cần. Ví dụ, một khi chúng ta đã đến một nhà hàng để ăn, chúng ta biết rằng ta đang ngồi, xem thực đơn, gọi món, đợi, ăn và thanh toán món ăn. Chuỗi sự kiện này tạo thành một lược đồ về cách dùng bữa. Khi ta ghé thăm một nhà hàng mới, lược đồ mà ta đã phát triển cung cấp cho ta ý tưởng cơ bản về trải nghiệm ăn uống mới sẽ được thực hiện như thế nào.
Các lược đồ của chúng ta và các hành vi liên quan đến chúng được sửa đổi khi chúng ta thêm nhiều trải nghiệm hoặc thông tin vào chúng. Ví dụ: nếu lược đồ đi ăn ngoài của ta được hình thành từ việc ăn chủ yếu tại các nhà hàng sang trọng, nơi ta phải đặt chỗ trước và đợi để được ngồi, thì lược đồ đó sẽ được mở rộng (đồng hóa) khi ta đi ăn tại một cửa hàng thức ăn nhanh nơi bạn đặt hàng từ quầy và tự ngồi.
Sự đồng hóa trong đó những trải nghiệm mới được diễn giải lại để phù hợp với đồng hóa những ý tưởng cũ và phân tích những sự kiện mới cho phù hợp. Nó xảy ra khi con người đối mặt với thông tin mới hoặc không quen thuộc và tham khảo thông tin đã học trước đó để hiểu về nó. Ngược lại, thích nghi là quá trình lấy thông tin mới trong môi trường của một người và thay đổi các lược đồ đã có từ trước để phù hợp với thông tin mới. Điều này xảy ra khi lược đồ hiện có (kiến thức) không hoạt động và cần được thay đổi để đối phó với một đối tượng hoặc tình huống mới.
Thích nghi là bắt buộc với con người, vì đó là cách mọi người sẽ tiếp tục diễn giải các khái niệm, lược đồ, khuôn khổ mới và hơn thế nữa. Piaget tin rằng bộ não con người đã được lập trình thông qua quá trình tiến hóa để mang lại trạng thái cân bằng. Đó là điều mà ông tin rằng cuối cùng nó ảnh hưởng đến cấu trúc bởi các quá trình bên trong và bên ngoài thông qua đồng hóa và thích nghi.
Đồng hóa và thích nghi như hai mặt của một đồng xu. Để đồng hóa một đối tượng vào một lược đồ tinh thần hiện có, trước tiên người ta cần tính đến hoặc thích ứng với các đặc điểm của đối tượng này ở một mức độ nhất định. Ví dụ, để nhận ra (đồng hóa) một quả táo với một quả táo, trước tiên người ta phải tập trung (điều chỉnh) vào đường viền của đối tượng này (quả táo). Để làm điều này, người ta cần phải nhận ra một cách đại khái kích thước của đối tượng (quả táo). Sự phát triển làm tăng sự cân bằng, hay sự cân bằng giữa hai chức năng này. Khi cân bằng với nhau, sự đồng hóa và thích nghi sẽ tạo ra các lược đồ tinh thần để cho trí thông minh hoạt động. Khi một chức năng chiếm ưu thế hơn chức năng kia, chúng tạo ra các biểu diễn thuộc về trí thông minh theo nghĩa bóng.
Tài liệu tham khảo[sửa]
- Allport, G., Pattern and Growth in Personality, New York: Holt, Rinehart, and Winston, 1961.
- Ausubel, D. P., & Robinson, F. G., School learning. An introduction to educational psychology, New York: Holt. Google Scholar, 1969.
- Piaget, Jean, and Bärbel Inhelder, The Psychology of the Child, New York: Basic Books, 1969.
- Ausubel, D., Novak, J., & Hanesian, H., Educational psychology: a cognitive view (2nd ed.), New York: Holt, Rinehart & Winston.Google Scholar, 1978.
- Bruner, J., Acts of meaning, Cambridge: Harvard University Press. Google Scholar, 1990.
- Novak, J., Learning, creating, and using knowledge: concept maps as facilitative tools for schools and corporations, Mahwah: Erlbaum. Google Scholar, 1998.