Đánh giá lâm sàng là quá trình nhận thức mà theo đó bác sĩ lâm sàng ước tính một thông số liên quan về mặt lâm sàng cho từng bệnh nhân hoặc khách hàng; nó cũng đề cập đến sản phẩm của quá trình đó (chính là tham số).
Sự chính xác trong đánh giá lâm sàng có được thông qua kinh nghiệm và gắn liền với chuyên môn. Mặc dù có nhiều thông số mà bác sĩ lâm sàng có thể ước tính, nhưng hai nhóm thông số quan trọng nhất là xác suất của một biến cố lâm sàng và giá trị cho các trạng thái lâm sàng.
Phán đoán xác suất lâm sàng bao gồm các phán đoán xác suất trong trường hợp không có thông tin riêng biệt và các phán đoán xác suất có điều kiện để phân biệt thông tin. Trong một số lĩnh vực lâm sàng, đánh giá lâm sàng về xác suất của một kết quả được gọi là chỉ số nghi ngờ liên quan đến kết quả.
Trong trường hợp đầu tiên, bác sĩ lâm sàng phải ước tính khả năng xảy ra một số kết quả trên cơ sở hiểu biết của họ và kinh nghiệm trước đây về kết quả (ví dụ, một bệnh nhân mới sẽ bị tâm thần phân liệt hoặc dị ứng với penicillin). Về nguyên tắc, bác sĩ lâm sàng mới vào nghề phải làm điều này bằng cách truy xuất thông tin về tần suất của kết quả mà họ đã học được trong quá trình giáo dục lâm sàng của mình, trong khi bác sĩ lâm sàng có kinh nghiệm hơn có thể coi việc đánh giá như một nhiệm vụ phù hợp với khuôn mẫu và đánh giá khả năng xảy ra các kết cục trên cơ sở chúng tương tự với các kết quả nguyên mẫu mà bác sĩ lâm sàng đã quen thuộc và tần suất tương đối mà bác sĩ lâm sàng biết.
Các tài liệu tâm lý học, đặc biệt là công trình của Daniel Kahneman và Amos Tversky trong những năm 1970 và 1980, cho thấy rằng các phán đoán xác suất thường có thành kiến hệ thống, đặc biệt là các phán đoán xác suất được tạo ra bởi tính sẵn có (xác suất của các kết quả gần đây và đáng nhớ được đánh giá quá cao). Trong y khoa, sinh viên thường được đưa ra những câu châm ngôn như “khi bạn nghe thấy tiếng gõ móng ngựa, hãy nghĩ đến một con ngựa, chứ không phải một con ngựa vằn” để khuyến khích họ xem xét các bệnh thông thường trước những bệnh hiếm.
Trong trường hợp thứ hai, bác sĩ đang cố gắng điều chỉnh lại niềm tin của mình về tình trạng của bệnh nhân trên cơ sở các thông tin riêng biệt. Chẳng hạn như tiền sử bệnh nhân, khám sức khỏe hoặc xét nghiệm chẩn đoán. Ví dụ, một nhà tâm lý học lâm sàng có thể ước tính xác suất khách hàng bị tâm thần phân liệt, với điều kiện dựa trên số điểm của Bảng kiểm kê tính cách đa pha Minnesota (MMPI) của khách hàng.
Đánh giá lâm sàng là điểm chính thể hiện sự thành thạo, chuyên nghiệp và kỹ năng của bác sĩ, “nó quan trọng như một khả năng kỹ thuật có thể tự thực hiện thủ thuật”.
Đó là một quá trình lặp đi lặp lại, gồm:
- Sử dụng kiến thức điều dưỡng để quan sát và đánh giá những tình huống hiện tại;
- Xác định mối quan tâm mà bệnh nhân ưu tiên;
- Đưa ra những biện pháp khả thi, có cơ sở rõ ràng để thực hiện việc chăm sóc và điều trị bệnh nhân có hiệu quả.
Đánh giá lâm sàng được phát triển thông qua thực hành, trải nghiệm, học hỏi và phân tích phản biện liên tục. Nó cần thiết trong tất cả các lĩnh vực y tế: chẩn đoán, trị liệu, giao tiếp và ra quyết định.
Tài liệu tham khảo[sửa]
- Dana Castro (chủ biên) (dịch sang tiếng Việt), Tâm lý học lâm sàng, Nxb. Tri thức, 2015.
- Raymond J. Corsini, Alan J. Auerbach, Concise Encyclopedia of Psychology, Second edition, 1988.
- Freedheim D.K., Handbook of Psychology, Vol. 1, History of Psychology, John Wiley & Sons, 2003, pp. 124 - 125.
- W. Edward Craighead and Charles B. Nemeroff (Editors), The Concise Corsini Encyclopedia of Psychology and Behavioral Science, Published by John Wiley & Sons, Inc, Hoboken, New Jersey, Third edition, 2004, pp. 156 - 157.