Mục từ này đã đạt chất lượng ở mức sản phẩm bước đầu của Đề án Biên soạn Bách khoa toàn thư Việt Nam giai đoạn 1
Y tế công cộng

Y tế công cộng là một ngành khoa học và nghệ thuật phòng ngừa bệnh tật, kéo dài tuổi thọ, tăng cường sức khỏe và hiệu quả thể chất thông qua những cố gắng của cộng đồng về vệ sinh môi trường, kiểm soát bệnh truyền nhiễm, giáo dục người dân về các nguyên lý của vệ sinh cá nhân, tổ chức các dịch vụ y học và điều dưỡng để chẩn đoán sớm và phòng ngừa bệnh tật, và phát triển các cơ chế xã hội để đảm bảo cho mọi người có một chất lượng sống đầy đủ để duy trì sức khỏe.

Trong khi điểm mạnh của Y học lâm sàng nằm ở lĩnh vực điều trị cho từng cá nhân riêng lẻ, thì y tế công cộng quan tâm đến nhiều đến phòng bệnh chủ động hơn là chữa bệnh và quan tâm nhiều đến các vấn đề sức khỏe cộng đồng hơn là vấn đề sức khỏe của cá nhân.

Mô tả[sửa]

Y tế công cộng là một lĩnh vực đa ngành, ứng dụng khoa học nghiên cứu vào giải quyết những vấn đề sức khỏe hằng ngày. Người làm y tế công cộng sẽ sử dụng dịch tễ và thống kê y học làm nền tảng để nghiên cứu và triển khai nhiều lĩnh vực nhỏ, chuyên sâu như sức khỏe môi trường, sức khỏe tâm thần, sức khỏe nghề nghiệp, dinh dưỡng và an toàn thực phẩm, sức khỏe sinh sản và tình dục, chính sách công, truyền thông và giáo dục sức khỏe, các vấn đề về công bằng xã hội như bình đẳng giới, người tàn tật...

Có thể thấy rất rõ, về mặt kỹ thuật, y tế công cộng có những phương pháp riêng (không giống với những kỹ thuật y tế ứng dụng cho một cá thể). Để theo dõi tình trạng của một cá thể thì người bác sĩ lâm sàng áp dụng các biện pháp thăm, khám bệnh thông thường (nhìn, sờ, gõ, nghe, chụp X-quang, điện tim, điện não siêu âm, làm các xét nghiệm thông thường và đặc hiệu khác v.v...). Nhưng để theo dõi sức khỏe của một cộng đồng thì nhân viên y tế công cộng sẽ phải dùng các biện pháp dịch tễ học, thống kê sinh học, những biện pháp quản lý, tổ chức nghiên cứu cộng đồng, kinh tế y tế để theo dõi những biến động về sức khỏe trong cộng đồng đó bằng việc so sánh những bộ số liệu được thu thập tại những thời điểm khác nhau để xác định tỷ lệ một bệnh nào đó tăng lên hoặc giảm đi, chi phí cho những hoạt động đó tăng lên hay giảm đi, tỷ lệ sử dụng một dịch vụ nào đó tăng lên hay giảm đi. Sau đó sẽ phải lý giải nguyên nhân của những hiện tượng đó rồi đưa ra giải pháp cung cấp những dịch vụ với chất lượng cao nhất và giá cả hợp lý nhất.

Lịch sử[sửa]

Vào thế kỷ thứ V trước công nguyên, ở Hy Lạp, con người tin rằng bệnh tật được gây ra bởi các lực lượng siêu nhiên. Tuy nhiên, Hippocrates và các cộng sự của ông đã bác bỏ những tư tưởng ấy. Cuốn sách “Không Khí, Nước, Đất” của ông như một hướng dẫn cho cách phòng chống và chữa trị bệnh tật trong thế giới Hy Lạp – La Mã, nó được xem như tiền đề cho việc thành lập khoa học về y tế công cộng.

Vào thời trung cổ, người ta đã xây dựng khoảng 19.000 ngôi nhà dành cho việc cách ly bệnh phong khắp Châu Âu vào cuối thể kỷ thứ XII. Cách ly các trường hợp mắc bệnh phong thời trung cổ là đại diện đầu tiên cho sự ứng dụng thực hành y tế công cộng trên thế giới. Cũng trong thời kỳ này, nhiều hoạt động đặc trưng cho y tế công cộng cũng đã diễn ra như giám sát việc cung cấp nước và thoát nước, làm sạch đường phố...Đến giữa thế kỷ thứ XV, các thành phố lớn trong khu vực đã thành lập Ban thường trực về sức khỏe, thiết lập kiểm dịch, cách ly, sắp xếp chôn cất nạn nhân, xông hơi khử trùng các khu dân cư, tổ chức quản lý chặt chẽ, kết hợp với các thầy thuốc địa phương cung cấp cơ sở vật chất và tư vấn dự phòng.

Báo cáo về điều kiện vệ sinh của dân lao động vương quốc Anh (1842), được coi là một trong những tài liệu quan trọng nhất của y tế công cộng hiện đại. Những khám phá về vi khuẩn gây bệnh của Louis Pasteur (Pháp) và Robert Koch (Đức) vào cuối những năm 1870 và đầu những năm 1880, các nghiên cứu về ký sinh trùng học, hiểu về các dịch bệnh, sự phát triển của vaccine trong công tác phòng chống bệnh truyền nhiễm mở ra một kỷ nguyên mới về y tế công cộng. Những thành công này được gọi là cuộc cách mạng dịch tễ lần thứ nhất.

Đến cuối thế kỷ XX, một số nghiên cứu dịch tễ học đã chỉ ra các sự khác biệt về tình trạng sức khỏe giữa giới tính, dân tộc, và các nhóm nghề nghiệp. Sự bất bình đẳng như vậy xuất hiện ngày càng tăng và đang được công nhận là một thách thức lớn cho sức khỏe công cộng hiện đại. Và vấn đề toàn cầu của y tế công cộng hiện nay bao gồm các hậu quả đa dạng của sự ấm lên trong khí quyển, ô nhiễm đại dương và nước ngọt trên thế giới và sự suy giảm của ngành thủy sản, thế giới tăng trưởng nhanh chóng về dân số, sự xuất hiện của các bệnh truyền nhiễm, bao gồm cả HIV/AIDS, sản xuất và sử dụng thuốc gây nghiện.

Tại Việt Nam, bắt đầu từ năm 1891 Pháp đã cho xây dựng Viện Pasteur Sài Gòn (nay là Viện Pasteur thành phố Hồ Chí Minh). Bốn năm sau (1895), Viện Pasteur Nha Trang được xây dựng và Viện Pasteur Đà Lạt được thành lập như là một bộ phận của Viện Pasteur Nha Trang. Sau đó Viện Pasteur Hà Nội (nay là Viện Vệ sinh Dịch tễ Trung ương) được xây dựng vào năm 1926.

Sau Cách mạng Tháng Tám 1945 thành công, Chính phủ lâm thời chủ trương phải khẩn trương ngăn chặn các dịch bệnh đang phát sinh, song song với chống giặc đói, giặc dốt, thực hành vệ sinh, thực hiện đời sống mới. Trong kháng chiến chống Pháp, các Viện Vi trùng học tiếp tục nghiên cứu các vấn đề về vi trùng, dịch tễ và tiếp tục sản xuất vaccine phòng tả, thương hàn, đậu mùa, dại,... Hoạt động vệ sinh phòng bệnh đã được Bộ Y tế xác định là vị trí hàng đầu. Đó chính là quan điểm y học cách mạng và quan điểm này đã được quán triệt trong suốt chặng đường lịch sử của ngành. Cuối năm 1953 đầu năm 1954 Bộ Y tế đã sắp xếp lại tổ chức và Vụ Phòng bệnh chữa bệnh - bao gồm cả công tác chữa bệnh và phòng dịch - ra đời. Ngay từ khi hoà bình lập lại, Bộ Y tế đã thành lập các Đội chống Sốt rét, Viện Sốt rét - Ký sinh trùng - Côn trùng được thành lập. Sau đó các Phân Viện Sốt rét - Ký sinh trùng - Côn trùng Quy Nhơn (sau là Viện) và Phân Viện Sốt rét - Ký sinh trùng - Côn trùng TP. Hồ Chí Minh cũng được hình thành. Như vậy là từ năm 1956 đến năm 1964 Bộ Y tế đã tập trung chỉ đạo thực hiện đường lối y học dự phòng (YHDP), xây dựng phong trào nhân dân tham gia Vệ sinh phòng dịch, xây dựng một hệ thống Viện, Trạm vệ sinh phòng dịch xuống đến các Đội vệ sinh phòng dịch, Đội chống Sốt rét quận huyện.

Trải qua hơn 55 năm, cùng với sự phát triển của nền y học nước nhà, y tế công cộng và YHDP cũng đã có những bước phát triển vượt bậc và ngày càng được quan tâm đầu tư phát triển. Trong số những thành tựu rực rỡ mà nền y học Việt Nam đạt được, có thể kể đến những thành tựu trong lĩnh vực y tế công cộng - YHDP như thanh toán bệnh bại liệt vào năm 2000, thanh toán uốn ván sơ sinh vào năm 2005; có đủ khả năng sản xuất nhiều loại vaccine và sinh phẩm y tế chất lượng cao mà giá thành thấp hơn quốc tế; thực hiện hiệu quả trong việc bao vây dập các vụ dịch như SARS, cúm A/H5N1... So với năm 1976, các bệnh truyền nhiễm gây dịch ở trẻ em đã giảm từ 40 lần (năm 1985) đến hơn 140 lần (năm 2005).

Mục đích[sửa]

Sức khỏe cộng đồng là yếu tố cơ bản trong việc cải thiện chất lượng cuộc sống và tăng tuổi thọ trung bình trong một nhóm quần thể người. Nó có sự cải tạo trong việc xử lý nước thải và rác thải để đảm bảo yêu cầu vệ sinh. Y tế công cộng đặt lên hàng đầu vấn đề cung cấp nước ăn uống đảm bảo tiêu chuẩn vệ sinh. Nó còn quan tâm đến chất lượng không khí để giúp cho cộng đồng cuộc sống tốt hơn. Y tế công cộng cung cấp thông tin về phân bố các trường hợp bệnh, mô hình, cơ chế và mức độ lan truyền bệnh nhằm mục đích loại bỏ bệnh nguy hiểm như bệnh bại liệt, bệnh đậu mùa, các bệnh này đã từng giết chết hàng triệu người.

Các chuyên gia về y tế công cộng tiếp tục theo dõi để đảm bảo các bệnh này để phòng ngừa bệnh tái phát. Họ cũng theo dõi và nghiên cứu các bệnh mới như là cúm gia cầm (bệnh truyền nhiễm) để làm sáng tỏ quá trình lây bệnh để xây dựng, thực hiện và đánh giá các biện pháp phòng bệnh thích hợp. Đối với các bệnh không lây nhiễm, nhiều người cũng được hưởng lợi từ các chương trình sức khỏe cộng đồng như là chương trình khuyến khích cai thuốc lá, khuyến khích tập thể dục thường xuyên và chế độ dinh dưỡng hợp lý.

Các chuyên gia y tế công cộng thường hợp tác với nhiều chuyên ngành và nhiều lĩnh vực khác nhau nhằm nâng cao sức khỏe cho cộng đồng. Các chuyên gia y tế và cộng đồng thường làm việc với nhà giáo dục và trường học để xóa bỏ nạn mù chữ, vì những người không biết đọc biết viết rất khó tiếp cận với các dịch vụ chăm sóc sức khỏe. Các chuyên gia y tế và cộng đồng có thể làm việc với các nhà quy hoạch đô thị và nhà ở để tìm ra các mối nguy về sức khỏe như là chì có ở trong sơn hay a-mi-ăng có ở ngoài cộng đồng.

Chức năng của y tế công cộng Việt Nam[sửa]

Chức năng và nhiệm vụ của y tế công cộng đã được xác định cho Việt Nam thông qua một nghiên cứu thực hiện vào năm 2001 tại 4 tỉnh được chọn đại diện cho các vùng sinh thái của Việt Nam, đó là: Quảng Ninh, Hà Nội, Gia Lai và Cần Thơ. Phương pháp được thực hiện trong nghiên cứu này đã được các chuyên gia từ Anh, New Zealand, Fiji, Malaysia và Việt Nam cùng nhau thiết kế tại văn phòng trụ sở của TCYTTG ở Manila, Philipine. y tế công cộng có 9 chức năng cơ bản sau:

Chức năng 1: Theo dõi và phân tích tình hình sức khỏe

Chức năng 2: Giám sát dịch tễ học, phòng ngừa và kiểm soát bệnh:

Chức năng 3: Xây dựng chính sách và kế hoạch y tế công cộng

Chức năng 4: Quản lý có tính chiến lược các hệ thống và dịch vụ sức khỏe cộng đồng.

Chức năng 5: Quy chế và thực hành pháp luật để bảo vệ sức khỏe cộng đồng

Chức năng 6: Phát triển nguồn nhân lực và lập kế hoạch trong y tế công cộng.

Chức năng 7: Tăng cường sức khỏe, sự tham gia của xã hội trong công tác chăm sóc sức khỏe và làm cho người dân ý thức được đó là quyền lợi của mình.

Chức năng 8: Đảm bảo chất lượng dịch vụ sức khỏe cho cá nhân và cho cộng đồng

Chức năng 9: Nghiên cứu, phát triển và thực hiện các giải pháp y tế công cộng mang tính chất đổi mới

Cơ quan, chức danh về Y tế công cộng[sửa]

Bệnh viện, tổ chức y tế, tổ chức chăm sóc sức khỏe, tổ chức cứu trợ y tế, trường học, cơ sở y tế địa phương sẽ tuyển dụng các chuyên gia y tế và cộng đồng.

Các chức danh của chuyên gia y tế cộng đồng bao gồm:

Điều dưỡng y tế công cộng

Chuyên gia về sức khỏe môi trường

Thanh tra về Vệ sinh An toàn thực phẩm

Chuyên gia giáo dục sức khỏe cộng đồng

Nhà dịch tễ học, nhà thống kê sinh học, nhà điều tra về y tế công cộng

Các cơ sở đào tạo trọng điểm về Y tế công cộng ở Việt Nam[sửa]

Ngày nay, Y tế công cộng đang được đầu tư phát triển tại nước ta, các cơ sở đào tạo lớn về lĩnh vực này bao gồm:

1.Trường Đại học Y Hà Nội - Khoa Y tế công cộng: Nơi đầu tiên có khóa Cử nhân Y tế công cộng, Bác sĩ Y tế công cộng, Thạc sĩ, Tiến sĩ, BS CK1 y tế công cộng. Ngoài ra Khoa y tế công cộng - Đại học Y Hà Nội còn có các hệ đào tạo ở tất cả các cấp độ về Y học dự phòng, Dịch tễ học, Dinh dưỡng, và các chuyên ngành khac trong lĩnh vực Y tế công cộng.

2.Đại học Y Dược thành phố Hồ Chí Minh

3.Trường Cán bộ quản lý y tế TP HCM

4.Đại học Y Dược Cần Thơ

5.Đại học Y Thái Bình

6.Đại học Y tế công cộng

7.Đại học Y Thái Nguyên

8.Đại học Y Dược Hải Phòng

9.Đại học y Dược Huế

Tài liệu tham khảo[sửa]

  1. Gambrill, Eileen.Critical Thinking in Clinical Practice: Improving the Quality of Judgments and Decisions. 3rd ed. New York, NY: Wiley, 2012.
  2. McKenzie, James F., Brad L. Neiger, and Rosemary Thackeray. Planning, Implementing, & Evaluating Health Promotion Programs. 6th ed. San Francisco, CA: Benjamin Cummings, 2012.
  3. Schneider, Mary-Jane. Introduction to Public Health. 4th ed. Burlington, MA: Jones & Bartlett Learning, 2013
  4. Schimpff, Stephen C., MD. The Future of Health-Care Delivery: Why It Must Change and How It Will Affect You. Dulles, VA: Potomac Books Inc., 2012
  5. Viện sốt rét-kí sinh trùng Quy Nhơn. Khái niệm, Mục đích và Chức năng của Y tế công cộng, 2021.
  6. Khoa y tế công cộng Đại học y Huế. Cẩm nang y tế công cộng và y học dự phòng, Huế, 2012.