Mục từ này cần được bình duyệt
Khác biệt giữa các bản “Thái học”
Dòng 22: Dòng 22:
 
Tại [[Việt Nam]] nay chỉ còn khu cổ tích liệt hạng [[Văn Miếu - Quốc Tử Giám]]<ref>[http://vanmieu.gov.vn Văn Miếu Quốc Tử Giám - Trang chủ]</ref> [[Hà Nội]] đã sập trong giai đoạn [[Chiến dịch Hà Nội đông xuân 1946-7|Toàn quốc kháng chiến]] sau được trùng tu giai đoạn 1948-50 dưới chính thể [[Quốc gia Việt Nam]]. Tuy nhiên, ở hậu kì hiện đại, [[truyền thông]] và công luận thường phải lên tiếng phẫn nộ trước hành vi phá hoại cổ vật của khách tham quan [[người Việt]], đặc biệt thế hệ trẻ - những người vốn không còn cơ hội tiếp xúc [[văn hóa]] [[Hán tự]]. Tới mức, ban quản lý khu cổ tích phải lập đội tình nguyện viên đứng giám sát từng [[thạch bi]] để ngừa khách làm xước di vật, thậm chí đứng hoặc ngồi lên [[thạch bi]] [[tiến sĩ]] để chụp ảnh.
 
Tại [[Việt Nam]] nay chỉ còn khu cổ tích liệt hạng [[Văn Miếu - Quốc Tử Giám]]<ref>[http://vanmieu.gov.vn Văn Miếu Quốc Tử Giám - Trang chủ]</ref> [[Hà Nội]] đã sập trong giai đoạn [[Chiến dịch Hà Nội đông xuân 1946-7|Toàn quốc kháng chiến]] sau được trùng tu giai đoạn 1948-50 dưới chính thể [[Quốc gia Việt Nam]]. Tuy nhiên, ở hậu kì hiện đại, [[truyền thông]] và công luận thường phải lên tiếng phẫn nộ trước hành vi phá hoại cổ vật của khách tham quan [[người Việt]], đặc biệt thế hệ trẻ - những người vốn không còn cơ hội tiếp xúc [[văn hóa]] [[Hán tự]]. Tới mức, ban quản lý khu cổ tích phải lập đội tình nguyện viên đứng giám sát từng [[thạch bi]] để ngừa khách làm xước di vật, thậm chí đứng hoặc ngồi lên [[thạch bi]] [[tiến sĩ]] để chụp ảnh.
  
Quốc Tử giám [[Huế]] ban đầu ở ngoại thành bị hư nặng do trận bão Giáp Thìn (1904) nên phải dời vào thành, tuy được phục hồi nhưng quy mô kém hẳn ; sau [[Chiến dịch Mậu Thân]] (1968), cả hai công trình cũ-mới đều bị bom đạn phá tan hoang. Từ [[thập niên 1970]], chính quyền [[Huế]] theo lệnh chính phủ [[Việt Nam Cộng hòa]] cũng cố công khắc phục nhưng nhìn chung chỉ còn phế tích. Tới nay, khu cổ tích này được đổi thành [[Bảo tàng Lịch sử Thừa Thiên Huế]]<ref>[http://baotanglichsu.thuathienhue.gov.vn Bảo tàng Lịch sử Thừa Thiên Huế - Trang chủ]</ref>.
+
Quốc Tử giám [[Huế]] ban đầu ở ngoại thành rồi bị hư nặng do trận bão Giáp Thìn (1904) nên phải dời vào thành, tuy được phục hồi nhưng quy mô kém hẳn. Sau [[Chiến dịch Mậu Thân]] (1968), cả hai công trình cũ-mới đều bị bom đạn phá tan hoang. Từ [[thập niên 1970]], chính quyền [[Huế]] theo lệnh chính phủ [[Việt Nam Cộng hòa]] cũng cố công khắc phục nhưng nhìn chung chỉ còn phế tích. Tới nay, khu cổ tích này được đổi thành [[Bảo tàng Lịch sử Thừa Thiên Huế]]<ref>[http://baotanglichsu.thuathienhue.gov.vn Bảo tàng Lịch sử Thừa Thiên Huế - Trang chủ]</ref>.
 
{{cquote|''Sự kiện nổi bật trong tuần qua là đợt 1 kỳ thi ĐH-CĐ năm 2007 diễn ra. "Ăn theo" kỳ thi này là hiện tượng hàng ngàn "sĩ tử" đổ vào Văn Miếu sờ đầu rùa để cầu may. 82 bia tiến sĩ, 82 "cụ" rùa là nơi đầu tiên họ dừng chân trước khi đến điện Đại Thành vái thầy Khổng Tử, vào Nhà Thái Học thắp hương khấn thầy Chu Văn An. Khoảng 3 năm trở lại, tới Văn Miếu xoa đầu rùa cầu may thi cử đã trở thành phong trào.''<br>''Năm nay, số lượng thí sinh và phụ huynh đến cầu may đông đặc biệt, khiến ban quản lý khu cổ tích cho phép gửi xe vào sâu tận vườn Giám. Lo đầu rùa và bia tiến sĩ mòn vẹt dưới bàn tay khoảng vài chục ngàn người sau 10 ngày thi, ban quản lý cẩn thận huy động thanh niên tình nguyện từ các trường ĐH Sư phạm Hà Nội, Học viện Báo chí và Tuyên truyền túc trực tại hai dãy bia, nhắc nhở thí sinh đừng nên miết mạnh lên đầu các "cụ" rùa và bia tiến sĩ.''<br>''Các tân sinh viên tương lai người này nhìn người kia, đồng loạt thực hiện đầy đủ các động tác, từ xoa đầu rùa, xoa bia tiến sĩ và xoa lên trán mình. Nhiều thí sinh tỉnh xa mua những quyển sách nhỏ bằng lòng bàn tay có nội dung hướng dẫn hiểu biết về khu di tích để tìm bằng được bia tiến sĩ... cùng quê với mình. Nghiêm trang đứng chắp tay, trong lòng các bạn hẳn đang ước mong cháy bỏng được đỗ trong kỳ thi quan trọng này, có ngày "vinh quy bái tổ".''|||Tác giả Phương Liên, kí sự ''Sờ đầu rùa'', báo Thanh Niên, 2007}}
 
{{cquote|''Sự kiện nổi bật trong tuần qua là đợt 1 kỳ thi ĐH-CĐ năm 2007 diễn ra. "Ăn theo" kỳ thi này là hiện tượng hàng ngàn "sĩ tử" đổ vào Văn Miếu sờ đầu rùa để cầu may. 82 bia tiến sĩ, 82 "cụ" rùa là nơi đầu tiên họ dừng chân trước khi đến điện Đại Thành vái thầy Khổng Tử, vào Nhà Thái Học thắp hương khấn thầy Chu Văn An. Khoảng 3 năm trở lại, tới Văn Miếu xoa đầu rùa cầu may thi cử đã trở thành phong trào.''<br>''Năm nay, số lượng thí sinh và phụ huynh đến cầu may đông đặc biệt, khiến ban quản lý khu cổ tích cho phép gửi xe vào sâu tận vườn Giám. Lo đầu rùa và bia tiến sĩ mòn vẹt dưới bàn tay khoảng vài chục ngàn người sau 10 ngày thi, ban quản lý cẩn thận huy động thanh niên tình nguyện từ các trường ĐH Sư phạm Hà Nội, Học viện Báo chí và Tuyên truyền túc trực tại hai dãy bia, nhắc nhở thí sinh đừng nên miết mạnh lên đầu các "cụ" rùa và bia tiến sĩ.''<br>''Các tân sinh viên tương lai người này nhìn người kia, đồng loạt thực hiện đầy đủ các động tác, từ xoa đầu rùa, xoa bia tiến sĩ và xoa lên trán mình. Nhiều thí sinh tỉnh xa mua những quyển sách nhỏ bằng lòng bàn tay có nội dung hướng dẫn hiểu biết về khu di tích để tìm bằng được bia tiến sĩ... cùng quê với mình. Nghiêm trang đứng chắp tay, trong lòng các bạn hẳn đang ước mong cháy bỏng được đỗ trong kỳ thi quan trọng này, có ngày "vinh quy bái tổ".''|||Tác giả Phương Liên, kí sự ''Sờ đầu rùa'', báo Thanh Niên, 2007}}
 
==Tham khảo==
 
==Tham khảo==

Phiên bản lúc 17:05, ngày 27 tháng 10 năm 2020

Thái học (Hán văn : 太學) là học phủ tối cao trong hệ thống giáo dục cổ điển Á Đông, tương tự cao đẳng giáo dục ngày nay[1][2][3][4].

Lịch sử

Bắt đầu từ triều Châu đã dựng Thái Học cung (太學宮) gọi tục là Bích Ung (辟雍, 璧雍, 辟雝), vốn là một thủy tọa. Con em quý tộc phải vào đấy học lễ nghi, âm nhạc, vũ đạo, kị xạ. Đại đới lễ kí thiên Bảo phụ : "Hoàng đế vào Thái Học, nhờ thầy dạy bảo" (帝入太學,承師問道). Lễ kí thiên Vương chế : "Đại học ở ngoại đô, thiên tử gọi Bích Ung, chư hầu gọi Phán Cung" (大學在郊,天子曰辟雍,諸侯曰泮宮). Ngũ kinh thông nghĩa : "Thiên tử lập Bích Ung mà làm gì ? Sở dĩ làm lễ nhạc, tuyên bố giáo hóa, để mà dạy người thiên hạ, sai bảo con em quý tộc, nuôi Tam Lão, thờ Ngũ Điều, khiến chư hầu hành xử theo lễ nghĩa" (天子立辟雍者何?所以行禮樂,宣教化,教導天下之人,使為士君子,養三老,事五更,與諸侯行禮之處也).

  • Trung Hoa

Từ triều Hán về sau, Thái Học cung chỉ đặt tại kinh đô, con em quý tộc vào học được gọi quốc tử, lấy đạo Nho làm căn bản giáo huấn. Sang triều Tùy, Thái Học cung đổi thành Quốc Tử giám (國子監)[5]. Theo truyền thống, các địa phương xa kinh kì chỉ có Thượng tường (上庠) là học phủ tương tự, con em thường dân được phép tham dự.

  • Cao Ly

Ngay từ triều Hán, tại Cao Cú Ly đã có Thái Học cung phỏng theo thiết chế vùng lõi Hán quyển. Sau đó, tại Tân La cũng lập Quốc Học phủ (國學府). Triều Cao Ly lập Quốc Tử giám (國子監), triều Triêu Tiên đổi gọi Thành Quân quán (成均館). Mãi tới mạt kì mới dần cho phép nhà thường dân nộp lương tiền cho con em vào học.

  • An Nam

Cứ Đại Việt sử kí toàn thư, năm Thần Võ thứ nhì (1070) triều Lý Thánh Tông mới lập văn miếu ở hướng Nam tử cấm thành Thăng Long, vừa để thờ liệt thánh đạo Nho vừa làm học phủ của riêng thái tử Càn Đức, sau là hoàng đế Lý Nhơn Tông. Năm 1076, khi đã yên vị, Nhơn Tông hoàng đế mới cho lập Quốc Tử giám bề thế hơn ở bên hữu văn miếu. Việc huấn đạo chủ yếu do các văn thần đảm trách, chỉ con em quý tộc mới được nhập học.

Năm Nguyên Phong thứ ba (1253) triều Trần Thái Tông, đổi thành Quốc Học viện (國學院), cho con em thường dân có hạnh kiểm khá được vào học. Việc giảng học từ đấy mới tiến triển với quy mô phức tạp hơn. Năm 1370, hoàng đế Trần Nghệ Tông thậm chí cho lập điện thờ trọng thần Chu An ở cạnh văn miếu, điều trước đây chưa từng có. Từ năm 1484, hoàng đế Lê Thánh Tông bắt đầu cho dựng thạch bi đề danh các tân khoa tiến sĩ để khích lệ sĩ quân tử gắng dùi kinh mài sử[6].

Năm 1762, khi quốc vận đã suy, sự học bắt đầu thoái trào, hoàng đế Lê Hiển Tông lại cho sửa thành Quốc Tử giám, nhưng quy mô không bằng trước. Sang triều Nguyễn, Quốc Tử giám đặt tại thần kinh Huế với quy mô vượt hẳn, còn tại cố đô đổi gọi văn miếu làm nơi thờ liệt thánh và thượng tường của Hoài Đức phủ.

Theo Lịch triều hiến chương loại chí, ở cố đô Đông Kinh từng có những học phủ thiết chế như Quốc Tử giám, nhưng để đào tạo quan viên, học khóa chỉ 3 năm, gồm : Chiêu Văn quán, Sùng Văn quán, Tú Lâm cục, Trung Thư giám[7].

Văn hóa

Thái học nhìn chung gắn với mạng vận Nho giáo và hệ thống khoa cử, nhưng nhờ sự trường tồn cả ngàn năm trong lịch sử nên cơ sở này có đóng góp nhất định trong việc giáo dục hiền tài, đồng thời ít nhiều giữ cái thanh sạch trong đạo đức xã hội ngay trong những thời khắc nhiễu nhương nhất.

Ngày nay, Thành Quân Quán đại học hiệu được lập từ năm 1946 trên nền cổ tích Thành Quân quán, để vừa tôn vinh vừa kế tục cơ sở cũ trong việc giáo dục hiền tài tại Hàn Quốc.

Tại Việt Nam nay chỉ còn khu cổ tích liệt hạng Văn Miếu - Quốc Tử Giám[8] Hà Nội đã sập trong giai đoạn Toàn quốc kháng chiến sau được trùng tu giai đoạn 1948-50 dưới chính thể Quốc gia Việt Nam. Tuy nhiên, ở hậu kì hiện đại, truyền thông và công luận thường phải lên tiếng phẫn nộ trước hành vi phá hoại cổ vật của khách tham quan người Việt, đặc biệt thế hệ trẻ - những người vốn không còn cơ hội tiếp xúc văn hóa Hán tự. Tới mức, ban quản lý khu cổ tích phải lập đội tình nguyện viên đứng giám sát từng thạch bi để ngừa khách làm xước di vật, thậm chí đứng hoặc ngồi lên thạch bi tiến sĩ để chụp ảnh.

Quốc Tử giám Huế ban đầu ở ngoại thành rồi bị hư nặng do trận bão Giáp Thìn (1904) nên phải dời vào thành, tuy được phục hồi nhưng quy mô kém hẳn. Sau Chiến dịch Mậu Thân (1968), cả hai công trình cũ-mới đều bị bom đạn phá tan hoang. Từ thập niên 1970, chính quyền Huế theo lệnh chính phủ Việt Nam Cộng hòa cũng cố công khắc phục nhưng nhìn chung chỉ còn phế tích. Tới nay, khu cổ tích này được đổi thành Bảo tàng Lịch sử Thừa Thiên Huế[9].

Sự kiện nổi bật trong tuần qua là đợt 1 kỳ thi ĐH-CĐ năm 2007 diễn ra. "Ăn theo" kỳ thi này là hiện tượng hàng ngàn "sĩ tử" đổ vào Văn Miếu sờ đầu rùa để cầu may. 82 bia tiến sĩ, 82 "cụ" rùa là nơi đầu tiên họ dừng chân trước khi đến điện Đại Thành vái thầy Khổng Tử, vào Nhà Thái Học thắp hương khấn thầy Chu Văn An. Khoảng 3 năm trở lại, tới Văn Miếu xoa đầu rùa cầu may thi cử đã trở thành phong trào.
Năm nay, số lượng thí sinh và phụ huynh đến cầu may đông đặc biệt, khiến ban quản lý khu cổ tích cho phép gửi xe vào sâu tận vườn Giám. Lo đầu rùa và bia tiến sĩ mòn vẹt dưới bàn tay khoảng vài chục ngàn người sau 10 ngày thi, ban quản lý cẩn thận huy động thanh niên tình nguyện từ các trường ĐH Sư phạm Hà Nội, Học viện Báo chí và Tuyên truyền túc trực tại hai dãy bia, nhắc nhở thí sinh đừng nên miết mạnh lên đầu các "cụ" rùa và bia tiến sĩ.
Các tân sinh viên tương lai người này nhìn người kia, đồng loạt thực hiện đầy đủ các động tác, từ xoa đầu rùa, xoa bia tiến sĩ và xoa lên trán mình. Nhiều thí sinh tỉnh xa mua những quyển sách nhỏ bằng lòng bàn tay có nội dung hướng dẫn hiểu biết về khu di tích để tìm bằng được bia tiến sĩ... cùng quê với mình. Nghiêm trang đứng chắp tay, trong lòng các bạn hẳn đang ước mong cháy bỏng được đỗ trong kỳ thi quan trọng này, có ngày "vinh quy bái tổ".

— Tác giả Phương Liên, kí sự Sờ đầu rùa, báo Thanh Niên, 2007

Tham khảo

Liên kết

  1. Michael Sullivan (1962), The Birth of Landscape Painting in China, University of California Press, tr. 26–, GGKEY:APYE9RBQ0TH
  2. Michael Sullivan (1980), Chinese landscape painting, University of California Press, tr. 26
  3. Wesley M. Wilson (ngày 1 tháng 2 năm 1997), Ancient civilizations, religions, Africa, Asia, world problems & solutions, Professional Press, tr. 192
  4. Arthur Cotterell (ngày 31 tháng 8 năm 2011), China: A History, Random House, tr. 104–, ISBN 978-1-4464-8447-0
  5. A Consultant Report to The University Grants Committee of Hong Kong
  6. Bia đá Văn Miếu - Quốc Tử Giám góp phần vinh danh văn hiến Việt Nam
  7. Những trường học ở Thăng Long xưa
  8. Văn Miếu Quốc Tử Giám - Trang chủ
  9. Bảo tàng Lịch sử Thừa Thiên Huế - Trang chủ

Tài liệu

  • Ebrey, Patricia Buckley (1999). The Cambridge Illustrated History of China. Cambridge : Cambridge University Press.
  • Yuan, Zheng. "Local Government Schools in Sung China : A Reassessment", History of Education Quarterly (Volume 34, Number 2 ; Summer 1994) : 193–213.

Tư liệu

Quốc văn
Ngoại văn