Mục từ này cần được bình duyệt
Hiệp hội Tâm lý học Mỹ
Phiên bản vào lúc 18:07, ngày 9 tháng 4 năm 2021 của Tttrung (Thảo luận | đóng góp) (Tttrung đã đổi Hiệp hội tâm lý học mỹ thành Hiệp hội Tâm lý học Mỹ: tên riêng)
(khác) ← Phiên bản cũ | xem phiên bản hiện hành (khác) | Phiên bản mới → (khác)

(APA)

Lịch sử phát triển

Hiệp hội Tâm lý học Mỹ là một tổ chức tâm lý học lớn nhất trên thế giới - Hiệp hội tâm lý học Mỹ (APA) - có trụ sở chính đặt tại Washington D.C. Nó được biết đến như một xã hội học tập trong những năm cuối thế kỷ XIX.

Ban đầu, tuyên ngôn của Hiệp hội là “Sự tiến bộ của tâm lý như là một khoa học”, và hội viên được mời rộng rãi bao gồm tất cả những ai cam kết vào lĩnh vực này. Đến năm 1917, mục đích của Hiệp hội được mở rộng thành “Sự tiến bộ của tâm lý như một khoa học và nghề nghiệp”, và giữa những năm 1940 sự tăng cường và đẩy mạnh phúc lợi con người được bổ sung thêm như là một mục tiêu cụ thể của Hiệp hội.

Số lượng hội viên tăng chậm trong những thập kỷ đầu mới thành lập, từ 26 hội viên năm 1892, khi Rael chuẩn bị xây dựng Hiệp hội tâm lí học thì thành viên của Hội chỉ khoảng 10 người và đạt đến khoảng 300 người vào đầu những năm 1930, sau đó vượt lên con số 4,000 vào đầu năm 1940. Đến giữa thế kỷ XX, số lượng hội viên đạt đến 10.000 người. Vào đầu những năm 1980, Hiệp hội có hơn 50.000 hội viên và cuối những năm 1990, số lượng hội viên và tổ chức thành viên vượt quá 150.000. Năm 1997, số hội viên lên 151.000 người.

Số lượng hậu bối của Tâm lí học Mỹ cũng vô cùng đông đảo, đó là những sinh viên của khoa Tâm lí học của các trường đại học hoặc những nghiên cứu viên của các viện nghiên cứu. Mỗi năm có khoảng 300 vạn sinh viên chọn môn tâm lí học, có khoảng 25 vạn sinh viên là sinh viên khoa tâm lí học. Năm 1976 có 60.000 sinh viên tốt nghiệp cử nhân chuyên ngành tâm lí học. Trong đó có khoảng 40% số sinh viên đó làm việc ở các viện nghiên cứu. Lí do có nhiều sinh viên chọn học môn tâm lí học là do có nhiều chuyên ngành liên quan đến tâm lí học khuyến khích sinh viên chọn học môn tâm lí học, lại có nhiều môn học quy định tâm lí học là môn học bắt buộc cho chuyên ngành của họ. Ngoài ra, có nhiều đơn vị tuyển dụng có nhu cầu tuyển những bác sĩ, kiến trúc sư, giáo viên, luật sư và những nhà quản lí có kiến thức về tâm lí học, yêu cầu những sinh viên tốt nghiệp trong quá trình học phải học qua bộ môn tâm lí học.

Từ một tổ chức học thuật nhỏ vào thời điểm khi tâm lý học thực nghiệm , và Tâm lý học vẫn còn là một môn khoa học gặp khó khăn trong việc xác định vị trí, tìm kiếm chỗ đứng như một khoa học khi được tách ra từ triết học, Hiệp hội Tâm lý học Mỹ đến nhữn năm 1990 đã phát triển thành một tổ chức đa dạng, rộng lớn với những mục đích to lớn như nỗ lực đáp ứng nhu cầu thực hành nghề của các nhà tâm lý học và các nhà tâm lý nghiên cứu khoa học, cũng như đẩy mạnh việc ứng dụng kiến thức tâm lý và tri thức để giảm bớt ảnh hưởng của các vấn đề cá nhân và xã hội.

Tiền đề hình thành Hiệp hội Tâm lý học Mỹ

Hiệp hội Tâm lý học Mỹ bắt đầu tại cuộc học trù bị do G.Stanley Hall – chủ tịch trường Đại học Clark chủ trì trong một nghiên cứu của ông tại Worcester, Massachusetts vào ngày 8/7/1892. Cuộc họp thường niên đầu tiên của Hiệp hội thông qua lời mời của George S. Fullerton được tổ chức vào ngày 27/12/1892.

Bước sang cuối thế kỷ 19, tâm lý chuyển từ một ngành khoa học kinh viện sang khoa học thực nghiệm, một vài học viện giáo dục sau đại học có danh tiếng đã bắt đầu tập trung đào tạo sau đại học hơn là chỉ duy nhất có trình độ đại học. Nhiều chuyên ngành đã tập hợp với nhau tạo thành những hiệp hội chuyên môn (như Hiệp hội vì sự phát triển của khoa học Mỹ, Hiệp hội Khoa học Xã hội Mỹ, Hội Hóa học Mỹ, Hiệp hội ngôn ngữ hiện đại, và Hiệp hội Lịch sử Mỹ). Hội Sinh lý học Mỹ được thành lập cuối những năm 1880 bởi một số đồng nghiệp của Hall tại Đại học John Hopkins, nơi mà Hall đã xây dựng phòng thực nghiệm tâm lý trước đó. Hội này trở thành một mô hình cho Hall có một viễn cảnh xây dựng Hiệp hội tâm lý học mới. Thời điểm cho sự ra đời của Hội dường như đã chín muồi, nhưng mong muốn và tham vọng của Hall để trở thành người lãnh đạo của ngành Tâm lý học Mỹ cũng đóng vai trò quan trọng trong những sự kiện để dẫn đến sự ra đời chính thức của Hiệp hội Tâm lý học Mỹ.

Tham dự vào nghiên cứu của Hall vào mùa hè năm 1892 là nhiều nhân vật nổi tiếng nhất trong ngành Tâm lý học thời điểm đó, cũng như đại diện của các ngành khoa học có liên quan như Tâm thần học, Triết học và Giáo dục học. Theo báo cáo có nhiều nhà tâm lý học tham dự như: nhà tâm lý học William James của Đại học Havard, James Mark Baldwin của Đại học Toronto, Joseph Jastrow của Đại hoc Wiscosin, Goerge Trumbull Ladd của Đại hoc Yale, và James McKeen Cattell của Đại học Columbia. Những diễn giả trình bày như: nhà triết học John Dewey của Đại học Michigan, Goerge S.Fullerton của Đại học Pennsylvania, James H. Hyslop của Đại học Columbia va Josiah Royce của Đại học Havard; nhà tâm thần học Edward Cowles và William Noyes của Bệnh viện McLean gần Boston; và nhà giáo dục William H. Burnham và Benjamin I. Gilman đến từ Đại học Clark. Tuy nhiên, theo một vài nguồn tin đáng tin cậy lại cho rằng thời điểm đó James lại đang ở Châu Âu và cả Cattell lẫn Jastrow đều không tham dự cuộc họp mặt.

Cuộc họp thường niên đầu tiên của Hiệp hội APA diễn ra tại trường Đại học Pennylvania vào cuối tháng 12/1892 có 18/31 đại biểu là thành viên của Hiệp hội vào thời điểm đó. Hàng chục tham luận tại cuộc họp bàn đến nhiều khía cạnh khác nhau, từ bài phê bình về Tâm vật lý cổ điển của James McKeen Cattell đến miêu tả của Jastrow về tâm lý học thực nghiệm, kế hoạch cho Lễ hội thế giới mùa hè tiếp theo, và báo cáo của William L. Bryan về việc sử dụng các trắc nghiệm tâm lý trong nhà trường ở Springfield, Indiana, đến phần trình bày của Lightner Witmer về đo lường theo diễn tiến thời gian của những phản ứng đơn giản. Một vài báo báo khác như của Cattell và Hugo Munsterberg đã cho thấy rằng những tranh luận trí tuệ đã diễn ra tại cuộc họp thường niên của Hiệp hội ngay từ ban đầu. Hall đã chính thức được bầu là chủ tịch của Hiệp hội Tâm lý học Mỹ và trình bày bài phát biểu đầu tiên ở cương vị chủ tịch về “Lịch sử và triển vọng của tâm lý học thực nghiệm tại Mỹ”.

Hiệp hội Tâm lý học Mỹ nửa thế kỷ đầu tiên của thế kỷ XX

Tại cuộc họp của Hiệp hội năm 1894 tại Đại học Princiton, APA thực thi một hiến pháp chính thức. William James của đại học Havard được bầu làm chủ tịch, và James Mckeen Cattell - thư ký thủ quĩ đã thông báo rằng chi phí cho một năm của Hiệp hội là 63.93 USD, trong tổng số ngân sách chung của Hiệp hội là 127.17 USD. Phí thường niên cho mỗi hội viên được ấn định là 3.00 USD, nhưng sau đó giảm xuống còn 1.00 USD vào năm 1905 do quĩ của Hiệp hội gia tăng, và lệ phí này tăng thêm đến 2.00 USD năm 1919.

Trong suốt thế kỷ đầu thành lập của Hiệp hội APA, không có một tổ chức triết học tầm quốc gia nào được ra đời. Do vậy, những báo cáo thiên chủ yếu về các chủ đề triết học đã trở thành phổ biến trong các hội nghị thường niên của Hiệp hội. Với sự ra đời của Hiệp Hội Triết học Phương Tây vào năm 1900 và sau đó là Hiệp hội Triết học Mỹ vào năm 1901, các nhà triết học cuối cùng cũng đã có một diễn đàn chính thức mang tầm quốc gia của chính mình và số lượng các bài báo về chủ đề triết học tại các Hội nghị thường niên của Hiệp hội APA giảm đi đáng kể. Đầu năm 1896, Hiệp hội APA đã phải đối mặt với rất nhiều phàn nàn về việc ủng hộ ngành Triết học. Sự lo ngại này cùng với mong muốn về một hội nghị chỉ tập trung vào tâm lý học thực nghiệm chứ không phải các vấn đề ứng dụng hay thực hành đã khiến Edward B. Tichener lập ra Hội “các nhà thực nghiệm” vào năm 1904 – tiền thân của Hội các nhà Tâm lý học thực nghiệm sau này.

Giữa những năm 1910 và 1920 tâm lý học ứng dụng trở thành tâm điểm của sự chú ý của một số nhà tâm lý học tiêu biểu - sự chú ý mà Hiệp hội APA ban đầu từ chối thừa nhận. Vào năm 1917, một nhóm các nhà tâm lý học lâm sàng chống đối đã thành lập Hiệp hội các nhà Tâm lý học lâm sàng Mỹ (AACP). Do vậy, APA quyết định thành lập một chuyên ngành lâm sàng và có một chỗ đứng riêng trong tổ chức này. Động thái này dẫn đến kết quả là nhiều thành viên của Hiệp Hội AACP đã trở thành thành viên của APA và khi mục đích của AACP đạt được, thì Hiệp hội này được giải thể.

Vào năm 1922, APA bắt tay vào chương trình xuất bản tạp chí của hiệp hội thông qua ý định mua lại 5 tạp chí từ Howard C.Warren. Hiệp hội APA bắt đầu xuất bản tạp chí Psychological Abstract vào năm 1927. Những nhà tâm lý học ứng dụng tiếp tục tin rằng Hiệp hội APA, mặc dù khi đó vừa là một xã hội nghề nghiệp và học tập, thực sự đã không đáp ứng đầy đủ yêu cầu của họ và đến năm 1937 Hiệp hội Tâm lý học ứng dụng Mỹ được thành lập. Mâu thuẫn giữa tâm lý học “ứng dụng” và tâm lý học “cơ bản”, giữa tâm lý học “học thuật” và tâm lý học “chuyên nghiệp” trở nên gay gắt vào đầu năm 1941, khi Karl M. Dallenbach là chủ tịch của Ủy ban khẩn cấp về Tâm lý học do Hội đồng nghiên cứu quốc gia thành lập nhằm huy động sự tham gia của Tâm lý học vào cuộc Chiến tranh thế giới thứ 2. Ủy ban đã chỉ định Robert M. Yerkes làm trưởng ban Ban Nghiên cứu và Lập kế hoạch cho Tâm lý học. Yerkes đã mời 6 nhà tâm lý học nổi tiếng cùng với ông làm việc cho Ban này. Năm trong số các nhà tâm lý học này rất ủng hộ quan điểm cho rằng biểu tượng của Hiệp hội APA là một cộng đồng xã hội của tâm lý học thực nghiệm như: Edwin G. Boring, Alice Bryan, Edgar Doll, Richard Eliot, Ernest R. Hilgard, và Calvin Stone.

Tái tổ chức của Hiệp hội Tâm lý học Mỹ (APA)

Nhiệm vụ kép mà Ban Nghiên cứu và lập kế hoạch cho Tâm lý học của Yerkes phải thực hiện là xem xét làm thế nào để tâm lý học có thể được sử dụng cho nỗ lực chiến tranh, và đưa ra các kiến nghị tâm lý học nên phát triển như thế nào để trở thành một khoa học cũng như một nghề chuyên nghiệp sau chiến tranh. Nhiệm vụ thứ hai đã dẫn đến sự thay đổi quan trọng về cấu trúc của Hiệp hội APA vào giữa những năm 1940. Ủy ban họp vào năm 1942 và đề nghị thành lập qui ước, thỏa thuận mang tính pháp lý về sự liên kết xã hội của các nhà tâm lý học (Intersociety Constitutional Convention of psychologists). Hội nghị năm 1943 tại New York có 26 đại diện của 9 hiệp hội tâm lý quốc gia đã đồng ý thành lập Ủy ban mở rộng do Hilgard đứng đầu để phát triển những điều khoản cụ thể theo luật pháp nhằm hướng đến sự ra đời một tổ chức có thể đáp ứng nhu cầu và sự quan tâm của tất cả các nhà tâm lý học. Những điều khoản này đã được tổ chức mới lập phê chuẩn vào năm 1944 và sự tái cấu trúc của Hiệp hội APA chính thức có hiệu lực vào năm 1945. Tổ chức AACP lúc này đã hoàn thành sứ mệnh của mình nên đã ngừng hoạt động.

Hiệp hội APA mới gồm 18 lĩnh vực, mỗi lĩnh vực xác định mục tiêu, hoạt động và hướng nghiên cứu chính của mình trong nền chung của tâm lý học. Một vài lĩnh vực vốn trước đây là những lĩnh vực thành công của Hiệp hội AACP. Các lĩnh vực chính vì thế là sự tập hợp của các tổ chức bao gồm tổ chức đại diện cho lĩnh vực từ giảng dạy tâm lý học, tâm lý học thực nghiệm, và tâm lý học quân sự đến tâm lý học so sánh, tâm lý học phát triển, tâm lý học xã hội và tâm lý học tham vấn. Cấu trúc mới của Hiệp hội phản ánh tính đa dạng và rộng mở của lĩnh vực tâm lý học, phản ánh mong muốn đưa các nhà tâm lý học đến một xã hội hợp nhất. Các qui ước, điều khoản được thông qua chuẩn bị cho sự ra đời các lĩnh vực bổ sung khác như một ngành chuyên môn trong Tâm lý học tiếp tục phát triển.

Hiệp hội Tâm lý học Mỹ (APA) đã đóng góp quan trong vào sự phát triển của hoạt động đào tạo Tâm lý học ở Mỹ, trong đó có đào tạo sau đại học. Số lượng các trường đại học đào tạo tiến sĩ Tâm lí học cũng không ngừng tăng lên, điều này đã thể hiện sự phát triển rất nhanh của tâm lí học ở Mỹ. Năm 1928, khi các trường có tư cách đào tạo tiến sĩ tâm lí học chỉ có bốn trường là đại học Colombia, đại học Chicago, đại học Havard và đại học Clark, thì đến năm 1950, số lượng các trường này đã lên đến 100 trường, đến năm 1975 là 300 trường. Đa số các trường đại học đều có khoa đào tào về tâm lí học.

Tài liệu tham khảo

Vũ Dũng (chủ biên), Từ điển Tâm lý học, NXB Từ điển bách khoa, Hà Nội 2008.

Benjamin, L.T, The history of American psychology. American Psychologist [Special issue], 1992.

Alan E. Kazdin (Editor in Chief). Encyclopedia of Psychology, Volume 1, American Psychology Association, Oxforrd University Press, 2000.