Mục từ này đã đạt chất lượng ở mức sản phẩm bước đầu của Đề án Biên soạn Bách khoa toàn thư Việt Nam giai đoạn 1
Khác biệt giữa các bản “Chống chịu môi trường”
(Tạo trang mới với nội dung “{{sơ}}'''Chống chịu môi trường''' là khả năng chịu đựng của các loài sinh vật trong phạm vi rộng với các yếu tố hóa h…”)
 
n
 
Dòng 1: Dòng 1:
 
{{sơ}}'''Chống chịu môi trường''' là khả năng chịu đựng của các loài sinh vật trong phạm vi rộng với các yếu tố hóa học và vật lý. Thuật ngữ này được viết bởi một trong những người sáng lập ra khoa học về nghiên cứu hệ sinh thái và đặt nền tảng cho nhiều vấn đề sinh thái và tiến hóa mà khoa học hiện tại quan tâm. Trong số các nhà nghiên cứu về sinh thái học tiến hóa và di truyền học sinh thái, người ta quan tâm nhiều đến cách thức mà chọn lọc tự nhiên tương tác với bộ gen để xác định phản ứng thích hợp của quần thể đối với các mức độ khác nhau của các yếu tố không phụ thuộc vào mật độ và các yếu tố có phụ thuộc vào mật độ. Trong nhiều lĩnh vực sinh thái học ứng dụng, chẳng hạn như thử nghiệm độc tính và phát triển các giống cây trồng mới, một tỷ lệ đáng kể nghiên cứu tập trung vào độ nhạy cảm của các kiểu gen, quần thể và/hoặc loài khác nhau đối với các điều kiện môi trường khắc nghiệt. Sự nhạy cảm của một quần thể đối với các thái cực của môi trường là một hàm của cả sự khác biệt giữa các cá thể trong tối ưu môi trường và chiều rộng của thích nghi bên trong mỗi cá thể.
 
{{sơ}}'''Chống chịu môi trường''' là khả năng chịu đựng của các loài sinh vật trong phạm vi rộng với các yếu tố hóa học và vật lý. Thuật ngữ này được viết bởi một trong những người sáng lập ra khoa học về nghiên cứu hệ sinh thái và đặt nền tảng cho nhiều vấn đề sinh thái và tiến hóa mà khoa học hiện tại quan tâm. Trong số các nhà nghiên cứu về sinh thái học tiến hóa và di truyền học sinh thái, người ta quan tâm nhiều đến cách thức mà chọn lọc tự nhiên tương tác với bộ gen để xác định phản ứng thích hợp của quần thể đối với các mức độ khác nhau của các yếu tố không phụ thuộc vào mật độ và các yếu tố có phụ thuộc vào mật độ. Trong nhiều lĩnh vực sinh thái học ứng dụng, chẳng hạn như thử nghiệm độc tính và phát triển các giống cây trồng mới, một tỷ lệ đáng kể nghiên cứu tập trung vào độ nhạy cảm của các kiểu gen, quần thể và/hoặc loài khác nhau đối với các điều kiện môi trường khắc nghiệt. Sự nhạy cảm của một quần thể đối với các thái cực của môi trường là một hàm của cả sự khác biệt giữa các cá thể trong tối ưu môi trường và chiều rộng của thích nghi bên trong mỗi cá thể.
  
Cá than (Anoplopoma fimbria) là một mô hình điển hình cho nghiên cứu khả năng chống chịu với môi trường của các loài cá biển. Loài này phân bố rộng rãi dọc theo Bắc Thái Bình Dương. Trong khi con non sống trong bờ thì con trưởng thành sống ở vùng nước sâu (tới 1500 m) và lạnh - thường bị thiếu oxy nghiêm trọng. Cá than trưởng thành sống ở gần bờ biển California nơi mức oxy tối thiểu nằm trong khoảng từ 0,34 đến 0,80 mg O2 L-1. Các loài sinh vật khác nhau sẽ có các chỉ số chống chịu môi trường khác nhau. Ví dụ khi nghiên cứu các yếu tố hóa học và vật lý ở 341 vị trí lấy mẫu khác nhau thì các chỉ số chịu đựng môi trường (Environmental Tolerance Index - ETI) của loài Ostracodes có phạm vi khá rộng. Để tính toán về tính chống chịu môi trường của các loài khác nhau người ta thường lập các mô hình lý thuyết toán học. Tuy nhiên, từ cả khía cạnh sinh thái và tiến hóa, vấn đề phức tạp về khả năng chống chịu môi trường khó có thể được giải quyết với các mô hình bỏ qua chi tiết về giao diện kiểu gen kiểu hình môi trường.  
+
Cá than (''Anoplopoma fimbria'') là một mô hình điển hình cho nghiên cứu khả năng chống chịu với môi trường của các loài cá biển. Loài này phân bố rộng rãi dọc theo Bắc Thái Bình Dương. Trong khi con non sống trong bờ thì con trưởng thành sống ở vùng nước sâu (tới 1500 m) và lạnh - thường bị thiếu oxy nghiêm trọng. Cá than trưởng thành sống ở gần bờ biển California nơi mức oxy tối thiểu nằm trong khoảng từ 0,34 đến 0,80 mg O2 L-1. Các loài sinh vật khác nhau sẽ có các chỉ số chống chịu môi trường khác nhau. Ví dụ khi nghiên cứu các yếu tố hóa học và vật lý ở 341 vị trí lấy mẫu khác nhau thì các chỉ số chịu đựng môi trường (Environmental Tolerance Index - ETI) của loài Ostracodes có phạm vi khá rộng. Để tính toán về tính chống chịu môi trường của các loài khác nhau người ta thường lập các mô hình lý thuyết toán học. Tuy nhiên, từ cả khía cạnh sinh thái và tiến hóa, vấn đề phức tạp về khả năng chống chịu môi trường khó có thể được giải quyết với các mô hình bỏ qua chi tiết về giao diện kiểu gen kiểu hình môi trường.  
  
 
Tính không đồng nhất của môi trường, do hoàn cảnh bên ngoài hoặc do các lực điều chỉnh do chính quần thể tạo ra, là phổ biến và phải đóng vai trò hàng đầu trong việc định hình chiều rộng thích nghi của quần thể. Trong trường hợp không có sự biến đổi như vậy, phương sai di truyền ở cấp độ quần thể và thuyết tổng quát về sinh thái ở cấp độ cá thể rất khó giải thích nếu không đưa ra sự cân bằng giữa chọn lọc và đột biến hoặc giữa chọn lọc và di cư, tần số hoặc mật độ - lựa chọn phụ thuộc, hoặc sự thống trị quá mức.
 
Tính không đồng nhất của môi trường, do hoàn cảnh bên ngoài hoặc do các lực điều chỉnh do chính quần thể tạo ra, là phổ biến và phải đóng vai trò hàng đầu trong việc định hình chiều rộng thích nghi của quần thể. Trong trường hợp không có sự biến đổi như vậy, phương sai di truyền ở cấp độ quần thể và thuyết tổng quát về sinh thái ở cấp độ cá thể rất khó giải thích nếu không đưa ra sự cân bằng giữa chọn lọc và đột biến hoặc giữa chọn lọc và di cư, tần số hoặc mật độ - lựa chọn phụ thuộc, hoặc sự thống trị quá mức.

Bản hiện tại lúc 17:02, ngày 26 tháng 9 năm 2022

Chống chịu môi trường là khả năng chịu đựng của các loài sinh vật trong phạm vi rộng với các yếu tố hóa học và vật lý. Thuật ngữ này được viết bởi một trong những người sáng lập ra khoa học về nghiên cứu hệ sinh thái và đặt nền tảng cho nhiều vấn đề sinh thái và tiến hóa mà khoa học hiện tại quan tâm. Trong số các nhà nghiên cứu về sinh thái học tiến hóa và di truyền học sinh thái, người ta quan tâm nhiều đến cách thức mà chọn lọc tự nhiên tương tác với bộ gen để xác định phản ứng thích hợp của quần thể đối với các mức độ khác nhau của các yếu tố không phụ thuộc vào mật độ và các yếu tố có phụ thuộc vào mật độ. Trong nhiều lĩnh vực sinh thái học ứng dụng, chẳng hạn như thử nghiệm độc tính và phát triển các giống cây trồng mới, một tỷ lệ đáng kể nghiên cứu tập trung vào độ nhạy cảm của các kiểu gen, quần thể và/hoặc loài khác nhau đối với các điều kiện môi trường khắc nghiệt. Sự nhạy cảm của một quần thể đối với các thái cực của môi trường là một hàm của cả sự khác biệt giữa các cá thể trong tối ưu môi trường và chiều rộng của thích nghi bên trong mỗi cá thể.

Cá than (Anoplopoma fimbria) là một mô hình điển hình cho nghiên cứu khả năng chống chịu với môi trường của các loài cá biển. Loài này phân bố rộng rãi dọc theo Bắc Thái Bình Dương. Trong khi con non sống trong bờ thì con trưởng thành sống ở vùng nước sâu (tới 1500 m) và lạnh - thường bị thiếu oxy nghiêm trọng. Cá than trưởng thành sống ở gần bờ biển California nơi mức oxy tối thiểu nằm trong khoảng từ 0,34 đến 0,80 mg O2 L-1. Các loài sinh vật khác nhau sẽ có các chỉ số chống chịu môi trường khác nhau. Ví dụ khi nghiên cứu các yếu tố hóa học và vật lý ở 341 vị trí lấy mẫu khác nhau thì các chỉ số chịu đựng môi trường (Environmental Tolerance Index - ETI) của loài Ostracodes có phạm vi khá rộng. Để tính toán về tính chống chịu môi trường của các loài khác nhau người ta thường lập các mô hình lý thuyết toán học. Tuy nhiên, từ cả khía cạnh sinh thái và tiến hóa, vấn đề phức tạp về khả năng chống chịu môi trường khó có thể được giải quyết với các mô hình bỏ qua chi tiết về giao diện kiểu gen kiểu hình môi trường.

Tính không đồng nhất của môi trường, do hoàn cảnh bên ngoài hoặc do các lực điều chỉnh do chính quần thể tạo ra, là phổ biến và phải đóng vai trò hàng đầu trong việc định hình chiều rộng thích nghi của quần thể. Trong trường hợp không có sự biến đổi như vậy, phương sai di truyền ở cấp độ quần thể và thuyết tổng quát về sinh thái ở cấp độ cá thể rất khó giải thích nếu không đưa ra sự cân bằng giữa chọn lọc và đột biến hoặc giữa chọn lọc và di cư, tần số hoặc mật độ - lựa chọn phụ thuộc, hoặc sự thống trị quá mức.

Tài liệu tham khảo[sửa]

  1. Chen B., Wan C., Mehmood M. A., Chang J. S., Bai F., Zhao X., Manipulating environmental stresses and stress tolerance of microalgae for enhanced production of lipids and value-added products–A review, Biores. Technol., 244(2): 1198-1206, 2017.
  2. Leeuwis H. J., Nash G. W., Sandrelli R. M., Zanuzzo F. S., The environmental tolerances and metabolic physiology of sablefish (Anoplopoma fimbria), Comp. Biochem. Physiol., Part A, 231: 140-148, 2019.
  3. Lynch M., Gabriel W., Environmental tolerance. The American naturalist, 129(2): 283-303, 1987.