Mục từ này đã đạt chất lượng ở mức sản phẩm bước đầu của Đề án Biên soạn Bách khoa toàn thư Việt Nam giai đoạn 1
Carl Jung
Phiên bản vào lúc 14:51, ngày 16 tháng 11 năm 2022 của Deepmind (Thảo luận | đóng góp) (Tạo trang mới với nội dung “thumb|CARL JUNG (1875 - 1961){{sơ}}'''Carl Jung''' (1875 - 1961) là một Bác sĩ tâm thần người Thụy Sĩ…”)
(khác) ← Phiên bản cũ | xem phiên bản hiện hành (khác) | Phiên bản mới → (khác)
CARL JUNG (1875 - 1961)

Carl Jung (1875 - 1961) là một Bác sĩ tâm thần người Thụy Sĩ, người sáng lập Tâm lý học phân tích, người có ảnh hưởng trong các lĩnh vực Tâm thần học, Nhân chủng học, Khảo cổ học, Văn học, Triết học và nghiên cứu tôn giáo.

Gia đình và tuổi thơ[sửa]

Karl Gustav Jung sinh ra ở Kesswil, bang Thurgau của Thụy Sĩ, vào ngày 26 tháng 7 năm 1875, là con trai đầu tiên của mục sư cải cách Thụy Sĩ - Paul Achilles Jung (1842 - 1896) và Emilie Preiswerk (1848 - 1923).

Tuổi thơ Jung đã sống trong gia đình có bầu không khí tâm lý không được hòa thuận. Khi Jung mới sáu tuổi, căng thẳng giữa cha và mẹ đã nảy sinh. Mẹ của Jung là một người phụ nữ lập dị và trầm cảm. Bà đã dành thời gian đáng kể trong phòng ngủ của mình, nơi bà nói rằng các linh hồn đã đến thăm bà vào ban đêm. Mặc dù bà bình thường vào ban ngày, nhưng Jung nhớ lại rằng vào ban đêm mẹ anh trở nên kỳ lạ và bí ẩn. Anh kể lại rằng một đêm anh nhìn thấy một bóng người mờ nhạt và vô định bước ra từ phòng của mẹ anh với cái đầu tách khỏi cổ và lơ lửng trong không khí ở phía trước cơ thể. Jung có một mối quan hệ tốt hơn với cha mình. Việc mẹ Jung liên tục vắng mặt và trầm cảm đã gây ảnh hưởng sâu sắc đến Jung và khiến anh liên tưởng phụ nữ với “tính không đáng tin cậy bẩm sinh”. Trong cuốn hồi ký của mình Jung viết “Ảnh hưởng của cha mẹ là khuyết tật mà tôi đã bắt đầu”. Sau đó, những ấn tượng ban đầu này đã thay đổi, Jung đã tin tưởng hơn vào phụ nữ. Có lẽ hoàn cảnh gia đình đã ảnh hưởng đến những nghiên cứu của Jung sau này.

Khi còn nhỏ sức khỏe của Jung không tốt, anh thường bị ngất xỉu, thậm chí cha anh còn nghi ngờ anh bị chứng động kinh. Jung là một đứa trẻ đơn độc và sống nội tâm.

Học tập và bắt đầu sự nghiệp[sửa]

Ngay từ khi còn nhỏ Jung có nguyện vọng trở thành một nhà thuyết giáo hoặc mục sư. Bởi vì, trong gia đình Jung có một ý thức đạo đức mạnh mẽ về tôn giáo và một số thành viên trong gia đình anh cũng là giáo sĩ. Từ lâu, Jung đã muốn theo học ngành Khảo cổ học, nhưng gia đình anh không đủ khả năng để gửi anh đến Trường Đại học Basel. Sau khi học triết học ở tuổi thiếu niên, Jung quyết định chống lại con đường của chủ nghĩa tôn giáo truyền thống và thay vào đó Jung quyết định theo đuổi Tâm thần học và Y học. Jung lập tức bị thu hút và quan tâm đến sự kết hợp giữa sinh học và tâm linh. Đây chính xác là thứ anh ấy đang tìm kiếm. Sau khi quyết định trở thành một bác sĩ tâm lý, Jung ấy đăng ký vào học tại Trường Y tại Trường Đại học của Basel với sự hỗ trợ tài chính của những người thân. Jung nhận bằng vào năm 1900. Ông đảm nhiệm vị trí trợ lý phòng khám tâm thần tại Đại học Zurich. Tại đây, Jung làm việc dưới sự điều hành của bác sĩ tâm thần Eugen Bleuler (1857 - 1939), một bác sĩ tâm thần nổi tiếng với tác dụng chữa bệnh tâm thần phân liệt. Jung cũng đã đến Pháp để học với bác sĩ tâm thần nổi tiếng Pierre Janet (1859 - 1947). Năm 1905, Jung được bổ nhiệm vào Khoa Tâm thần học tại Đại học Zurich và trở thành một bác sĩ cao cấp tại phòng khám của trường đại học này. Nhưng do hoạt động tư nhân ngày càng tăng đã buộc Jung phải từ chức vị trí trong trường đại học.

Các nghiên cứu được công bố ban đầu của Jung về bệnh tâm thần phân liệt đã tạo dựng danh tiếng cho anh. Jung cũng đã được tín nhiệm giao cho phát triển một bài kiểm tra liên kết từ (word association test).

Jung đã đọc công trình The Interpretation of Dreams của Sigmund Freud ngay sau khi được xuất bản vào năm 1900 và Jung đã trao đổi thư từ với Sigmund Freud. Hai người đã gặp nhau vào năm 1907 và bắt đầu một sự liên kết chặt chẽ kéo dài trong hơn sáu năm. Freud coi Jung trẻ tuổi là người kế nghiệp mà ông đã tìm kiếm để tiếp tục phát triển “khoa học mới” về Phân tâm học của mình cho đến cuối cùng.

Năm 1909, cả hai cùng du lịch đến các tiểu bang của Hoa Kỳ tham gia lễ kỷ niệm 20 năm Đại học Clark ở Worcester, Massachusetts, theo lời mời của nhà tâm lý học người Mỹ, G. Stanley Hall ((1844 - 1924). Jung đã trở thành một phần của cuộc thảo luận hàng tuần của một nhóm nhà tâm lý học nhóm tại nhà của Freud, trong đó có Alfred Adler và Otto Rank (1884 - 1939). Sau này nhóm phát triển thành Hiệp hội Phân tâm học Vienna và Jung trở thành Chủ tịch đầu tiên vào năm 1911.

Jung đã bắt đầu phát triển các khái niệm về Phân tâm học và bản chất của vô thức khác với bản chất vô thức của Freud, đặc biệt là sự khẳng định kiên quyết của Freud về tình dục như là cơ sở của chứng loạn thần kinh. Jung không bị cuốn hút vào giả thuyết tính dục. Nghiên cứu và quan điểm cá nhân của Jung đã khiến ông không thể tuân theo học thuyết Phân tâm học. Sự chia tay này gây đau đớn cho cá nhân Jung và dẫn đến việc ông thiết lập Tâm lý học phân tích của mình như một hệ thống toàn diện tách biệt với Phân tâm học. Đặc biệt, sau khi Jung xuất bản Tâm lý học vô thức (Psychology of the Unconscious) năm 1912, sự bất đồng giữa Jung và Freud ngày càng lớn và mối quan hệ của họ kết thúc vào năm 1914. Vào thời kỳ này tâm trạng của Jung khá nặng nề. Ông bị rối loạn tâm thần nhẹ và thấy mình lạc vào cõi vô thức. Ông cũng khám phá các thần thoại và biểu tượng - một mối quan tâm mà ông đã nghiên cứu sâu hơn vào những năm 1920 với các chuyến đi đến châu Phi và Tây Nam Hoa Kỳ để nghiên cứu thần thoại và tôn giáo của các nền văn hóa không phải phương Tây.

Tâm lý học phân tích[sửa]

Không theo cách tiếp cận của Freud, Jung đã phát triển hệ thống phân tâm học của riêng mình, mà ông gọi là Tâm lý học phân tích. Nó thể hiện sự quan tâm đến biểu tượng, thần thoại và tâm linh. Các tiền đề chính của Tâm lý học phân tích là tính cách cá nhân, hay tâm lý. Jung đã chỉ ra hoạt động của tâm lý ở ba cấp độ. Bản ngã hoạt động ở cấp độ ý thức, trong khi vô thức cá nhân bao gồm những kinh nghiệm bị kìm nén, bị lãng quên hoặc bị giữ lại ở một số hình thức khác của ý thức. Vô thức cũng là địa điểm của các khu phức hợp - các nhóm cảm xúc, suy nghĩ và ký ức, thường có tổ chức xung quanh một người quan trọng (chẳng hạn như cha mẹ) hoặc một đối tượng (chẳng hạn như tiền). Jung cho rằng ở cấp độ sâu nhất và mạnh mẽ nhất đó là sự tồn tại của vô thức chủng tộc hoặc vô thức tập thể. Đó là sự tập hợp những kinh nghiệm của các thế hệ đi trước và thậm chí cả tổ tiên động vật, bảo tồn dấu vết của sự phát triển tiến hóa của loài người qua thời gian.

Jung tìm cách khai thác chiều sâu của vô thức để đối phó với kinh nghiệm hiện tại và làm sáng tỏ những bí ẩn của cuộc sống. Jung và Freud có quan điểm khác nhau về vô thức và cuộc sống. Không giống như Freud, Jung tin rằng vô thức có nhiều thứ hơn là tình dục và sự xâm kích. Freud coi cuộc sống là cuộc đối phó với sự lo lắng do xung đột với các thế lực nội thần kinh và ngoại thần kinh, Jung coi cuộc sống như một cuộc hành trình hướng tới sự hoàn thiện và toàn vẹn về tâm linh (nếu có điều kiện). Đối với Jung, tính cách nói chung được bao gồm những suy nghĩ, cảm xúc và hành vi có ý thức và vô thức. Nó có chức năng hướng dẫn con người đến môi trường xã hội và vật chất.

Trong lý thuyết của mình Jung phân tích sâu về tâm trí, ý thức và vô thức. Giống như Freud, lý thuyết của Jung dựa trên giả định rằng tâm trí có một cõi có ý thức và vô thức. Tâm trí bị ảnh hưởng bởi kinh nghiệm. Tâm trí giống như một hòn đảo nhỏ trong biển cả mênh mông của vô thức. Nhận thức có ý thức phát triển hàng ngày thông qua việc áp dụng các chức năng tâm thần bẩm sinh như suy nghĩ, cảm giác, cảm nhận và trực giác. Đứa trẻ không sử dụng từng chức năng như nhau - một chức năng có xu hướng chiếm ưu thế. Định hướng của tâm trí có ý thức được xác định bởi hai thái độ: hướng ngoại và hướng nội. Tâm trí có ý thức chứa đựng bản ngã, một phức hợp các ý tưởng có ý thức tạo thành trung tâm nhận thức của một người, có tính liên tục và tính đồng nhất cao. Do bản ngã, chúng ta cảm thấy mình giống nhau từ ngày này qua ngày khác. Bản ngã là một phần nhỏ trong tổng số tâm lý hoạt động như một người gác cổng vào ý thức. Bản ngã có tính chọn lọc cao. Trừ khi nó thừa nhận sự hiện diện của một ý tưởng, cảm giác, ký ức hoặc nhận thức, nếu không nó không thể được đưa đến nhận thức. Vô thức bao gồm những nội dung ý thức trước đây đã bị kìm nén hoặc đã giảm xuống dưới ngưỡng của ý thức, hoặc những yếu tố không bao giờ đạt tới ý thức. Nó có hai cấp độ: vô thức cá nhân và vô thức tập thể. Vô thức cá nhân là khía cạnh của vô thức phát triển do kinh nghiệm cá nhân. Nội dung của nó có thể được nhớ lại một cách dễ dàng, một số khó khăn và một số nằm ngoài tầm với của ý thức. Nó được gọi là vô thức cá nhân vì nó chỉ liên quan đến cá nhân. Vô thức cá nhân và Cái tôi có chung nguồn gốc khi sinh ra, nhưng Jung tin rằng tâm hồn khi sinh ra chứa một kho lưu trữ những tàn tích cổ xưa (hình ảnh nguyên thủy hoặc nguyên mẫu) được thừa hưởng từ những người nhẫn nhịn của tổ tiên mà ông gọi là vô thức tập thể. Đó là kết quả của lịch sử loài người với tư cách là một loài và là một ký ức và ý tưởng bẩm sinh, dành riêng cho loài.

Vô thức tập thể, chịu trách nhiệm về thần thoại, truyền thuyết và niềm tin tôn giáo của con người. Vô thức tập thể chứa đựng những nguyên mẫu là những hình ảnh cơ bản của con người. Nguyên mẫu xuất hiện trong các giấc mơ, thần thoại và các hình thức khác. Bao gồm các chủ đề phổ biến như sinh, tái sinh, chết, anh hùng, mẹ trái đất và ác quỷ. Nguyên mẫu đại diện trong vô thức kinh nghiệm của loài người - một ý tưởng kế thừa và vô thức. Cổ mẫu là những mẫu hoặc khuynh hướng phổ quát ảnh hưởng đến cách tất cả con người thích ứng một cách có ý thức và vô thức với thế giới của họ và là kết quả của sự tích lũy những kinh nghiệm thường xuyên lặp lại của nhân loại (Jung, 1961).

Đối với Jung, bản năng là một thôi thúc sinh lý bẩm sinh tạo ra các phương thức hành động và phản ứng đồng nhất, thường xuyên lặp lại. Cả nguyên mẫu và bản năng đều thúc giục một người hành động và trong cả hai trường hợp, người đó vẫn không ý thức được động cơ thực sự đằng sau hành động. Một nguyên mẫu không thể được đại diện trực tiếp, nhưng khi được kích hoạt, chúng thể hiện bản thân thông qua một số chế độ. Ví dụ: giấc mơ, tưởng tượng, ảo tưởng, nghệ thuật, thần thoại, tôn giáo, hành vi. Theo quan điểm của Jung, một phân tích kỹ lưỡng về cả vô thức cá nhân và tập thể là cần thiết để hiểu rõ tính cách cá nhân.

Có lẽ đóng góp nổi tiếng nhất của Jung là lý thuyết của ông cho rằng nhân cách có thể được phân loại theo chiều dọc là hướng nội (người hướng nội) hoặc hướng ngoại (người hướng ngoại). Sự toàn vẹn, hay sự cá biệt, mà con người phấn đấu phụ thuộc vào việc dung hòa những khuynh hướng này, cũng như bốn khía cạnh chức năng của tâm trí được chia thành các cặp đối lập: cảm nhận so với suy nghĩ như những cách hiểu biết và suy nghĩ so với cảm giác. Nếu bất kỳ đặc điểm tính cách nào trong số này đều là quá mức và chiếm ưu thế trong tâm trí có ý thức, điều ngược lại của nó sẽ được phóng đại trong vô thức.

Từ năm 1932 đến năm 1942, Jung là giáo sư tại Đại học Bách khoa liên bang Zurich. Khi sức khỏe không tốt buộc ông phải từ chức. Ông tiếp tục viết về Tâm lý phân tích cho phần còn lại của cuộc đời của mình và đạt được sự toàn vẹn nghiên cứu về tâm linh thông qua biến đổi cá nhân và khám phá bản thân.

Công việc của Jung không chỉ có ảnh hưởng lớn trong tâm lý học, mà còn có ảnh hưởng trong các lĩnh vực khác ngoài tâm lý học. Các công trình của ông bao gồm các tác phẩm về tôn giáo, nghệ thuật, văn học và các chủ đề huyền bí như thuật giả kim, chiêm tinh học, yoga, bói toán và đĩa bay. Tự truyện của Jung, Ký ức, Ước mơ, Suy tư (Memories, Dreams, Reflections), đã được xuất bản năm 1961, năm ông mất. Một thời gian ngắn trước khi qua đời, Jung đã hoàn thành công trình Người đàn ông và các biểu tượng của anh ta (Man and His Symbols) đã phản ánh những ý tưởng của Jung về biểu tượng và ước mơ.

Jung có ảnh hưởng lớn đến Tâm lý học Việt Nam. Quan điểm, lý thuyết về Tâm lý học phân tích, về tôn giáo của ông được trích dẫn nhiều trong các nghiên cứu của các nhà tâm lý học Việt Nam.

Tài liệu tham khảo[sửa]

  1. Vũ Dũng (Chủ biên), Từ điển Tâm lý học, Nxb. Từ điển bách khoa, tr. 158 - 159, 2008.
  2. Kazdin A.E. (Editor in chief), Encyclopedia of Psychology: 8 volume set, APA Publishing, Oxford University Press, Vol. 7, 2000, pp. 87 - 91.
  3. Strickland B. (Executive editor), The Gale Encyclopedia of Psychology, Gale Group, 2001, pp. 199.
  4. Freedheim D.K., Handbook of Psychology, Vol. 1, History of Psychology, John Wiley & Sons, 2003, pp. 124 - 125.
  5. W. Edward Craighead and Charles B. Nemeroff (Editors), The Concise Corsini Encyclopedia of Psychology and Behavioral Science, Published by John Wiley & Sons, Inc, Hoboken, New Jersey, Third edition, 2004, pp. 156 - 157.
  6. Erich Neumann, Introduction. The Origins and History of Consciousness, Princeton University Press. ISBN 978-0691163598, 2014, p. xv.
  7. Paul C. Bishop, The use of Kant in Jung's early psychological works, Journal of European Studies, 26 (2), DOI:10.1177/004724419602600201.S2CID 161392112, Retrieved 28 November 2020, pp. 107 - 140.