Mục từ này cần được bình duyệt
Muhammad
Phiên bản vào lúc 19:49, ngày 5 tháng 11 năm 2020 của Hadubrandlied (Thảo luận | đóng góp)

Muhammad (محمّد / Muḥammad, mô-kham-mết) là húy vị tổ khai sáng Hồi giáo. Theo truyền thống, Ngài là vị ngôn sứ, tiên tri và phục hưng cuối cùng được Thiên Chúa sai đến cứu rỗi nhân loại.

Danh hiệu

  • Húy danh : Abū al-Qāsim Muḥammad ibn ʿAbd Allāh ibn ʿAbd al-Muṭṭalib ibn Hāshim (ابو القاسم محمد ابن عبد الله ابن عبد المطلب ابن هاشم)
  • Xước hiệu : al-Nābiyy (أَلْنَّبِيّ), Rasūl’Allāh (رَسُولُ ٱلله), Abu'l-Qasim (أبو القاسم‎), al-Ḥabīb (أَلْحَبِيب), al-Muṣṭafā (أَلْمُصْطَفَى)...
  • Tôn xưng : Đấng Ngôn Sứ, Đấng Tiên Tri, Đức Ngài

Lịch sử

Theo truyền thống Hồi giáo, al-Sīrah an-Nabawiyyah (السيرة النبوية / Mục thánh truyện kí) là cứ liệu chính thức về sự đời Đấng Tiên Tri Muhammad. Sách này thường được thuyết giảng song hành với al-qurʾān hoặc al-ḥadīth.

  • Mục thánh giáng sinh năm 570 (Mawlid an-Nabawī) tại thành Makkah trong gia tộc Banu Hashim thuộc thị tộc Quraysh. Makkah bấy giờ là thủ phủ một liên minh gồm nhiều thị tộc ở trung tâm bán đảo Arab.
  • Khi cha mất, Ngài được đem cho một gia đình du mục Badw nuôi dưỡng, Ngài tôn bà Halimah al-Sa'diyah làm dưỡng mẫu. Tới năm sáu tuổi, khi sinh mẫu mất, Ngài được ông nội Abd al-Muttalib, rồi người chú Abu Talib ibn Abd al-Muttalib giám hộ. Thuở thơ ấu, Ngài thường theo thương đoàn của chú qua lại giữa DimashqMakkah. Theo huyền thoại, một lần đi qua sa mạc, Ngài đã gặp ẩn sĩ Cảnh giáo Bhira để được tiên đoán về sứ mạng.
  • Khoảng năm 595, mục thánh kết hôn với bà góa Khadija bint Khuwaylid. Vào năm 605, các tộc trưởng đòi dỡ Tảng Đá Đen (الكعبة, al-Kaʿbah) vốn được kính thờ từ lâu, nhưng không ai dám quyết. Rốt cuộc, họ bàn rằng, hễ ai bước qua cổng vào thành thì người ấy được phán quyết. Và đó là mục thánh.
  • Năm 610, trong một lần lên núi an-Nūr ngoạn cảnh, mục thánh ghé động Hira định bụng nghỉ chân. Bỗng Ngài gặp vầng sáng lạ, mà vầng sáng đó là tổng lĩnh thiên sứ Jibril. Ông ta mặc khải vào tai mục thánh và Ngài thốt ra những lời đầu của al-qurʾān. Tự bấy trong 3 năm, mục thánh bỏ hết vui thú thường nhật để tập trung thực hành tâm linh. Các thân nhân và bằng hữu cũng bắt đầu tin theo, mà về sau được tôn làm những tín đồ Hồi giáo ban sơ.
  • Năm 613, mục thánh đi khắp thành Makkah truyền giáo, khiến các tộc trưởng ái ngại, vì tín niệm của Ngài trái biệt phong tục bản địa đương thời. Bất chấp điều đó, đạo của Ngài bắt đầu vượt phạm vi Arab, sang tận Phi châu. Năm 617, các tộc trưởng ra phán quyết bài xích gia tộc Banu Hashim và bản thân mục thánh. Vì thế, Ngài khó lòng ở lại bản quán.
  • Năm 619, cả hiền thê và người chú mục thánh đều mất, nên được gọi bi ai chi niên (عام الحزن / Ām al-Ḥuzn). Năm 620, tổng lĩnh thiên sứ Jibril lại hiện ra, tặng mục thánh con bạch mã có cánh (الْبُرَاق / al-Burāq) để khiến Ngài thực hiện dạ hành bí tích (الإسراء والمعراج‎, al-’Isrā’ wal-Miʿrāj). Theo truyền thuyết, mục thánh đã đi từ Makkah tới tận al-Quds‎‎‎‎

Tham khảo

Liên kết