Mục từ này cần được bình duyệt
Tĩnh Hải quân
Phiên bản vào lúc 20:53, ngày 31 tháng 10 năm 2020 của Hadubrandlied (Thảo luận | đóng góp)

Tĩnh Hải quân (Hán văn : 靜海軍, Quảng thoại : Zing-hoi gwan) là khu vực hành chính Trung Hoa tương ứng mạn Nam Ngũ Lĩnh tới Hoành Sơn quan ngày nay, tồn tại giai đoạn 866 - 968.

Lịch sử

Niên hiệu Hàm Thông thứ 7 (866), hoàng đế Đường Ý Tông thuận thỉnh tấu của quan kinh lược Cao Biền mà nâng An Nam đô hộ phủ thành Tĩnh Hải quân. Nhờ công lao dẹp loạn Nam Chiếu, đại thần Cao Biền được trọng nhậm tiết độ sứ, tùy nghi hành sự tại đất Lĩnh Nam.

Thời nội thuộc (866 - 907)

Theo các chuyên khảo của tiến sĩ Li Tana, sau loạn An Sử, Đường triều nhìn chung đã suy không kiểm soát được biên viễn. Do mức trù phú và ổn định suốt nhiều thế kỉ, vùng Lĩnh Nam trở thành mục tiêu của nhiều thế lực mới nổi xung quanh, mà cuộc xâm lăng tàn khốc của Đại Lễ quốc chỉ là tất yếu.

Trong thời kì 858 - 865, quân Nam Chiếu liên tục tràn xuống An Nam, đặc biệt hạ lưu Hồng hà, các quan trấn thủ và tướng lĩnh Đường triều cự không nổi phải triệt thoái. Mãi tới năm 866, triều đình trung ương mới cử một văn thần là Cao Biền đẩy lui được. Tuy nhiên, tự vị thế có mật độ dân số lớn nhất Trung Châu, cư dân Lĩnh Nam từ lúc này vô cùng thưa thớt do bị bách hại hoặc bỏ chạy. Cũng từ vị thế độc tôn hải thương Trung Hoa, An Nam phải nhường đặc quyền cho lưu vực Quảng Châu. Tuy vậy, cho tới đầu thế kỉ XX, Tĩnh Hải quân tạm duy trì ổn định.

Khúc chủ (907 - 923)

Năm 907, nhân Hậu Lương Thái Tổ truất quyền tiết độ sứ Độc Cô Tổn, chưa kịp bổ nhậm quan viên mới, một hào trưởng Hồng châu là Khúc Hạo đem võ sĩ vào chiếm thủ phủ Đại La, xưng tiết độ sứ. Triều Lương vì ở quá xa, quyền bính còn bất ổn, nên tạm công nhận họ Khúc. Tuy nhiên, qua năm sau, Thái Tổ đế phong quan thị trung Lưu Ẩn chức Thanh Hải quân kiêm Tĩnh Hải quân tiết độ sứ. Họ Lưu viện cớ này để họ Khúc trao quyền ở Lĩnh Nam.

Năm 911, tiết độ sứ Lưu Ẩn mất, em là Lưu Nghiễm kế nghiệp và bắt đầu dựng tự chủ. Khúc chủ bèn phong con hoặc em là Thừa Mĩ làm khuyến hiếu sứ, sang Phiên Ngung giao hảo và dò la binh tình. Năm 917, Lưu Yểm cải danh thành Lưu Trắc, xưng đế và li khai triều Lương. Cũng năm ấy, Khúc chủ Hạo mất, sứ thần Thừa Mĩ phải về chịu tang và kế vị. Họ Lưu đặt quốc danh Đại Việt, rồi Đại Hán, mà sử gọi Nam Hán, tiến hành thu phục Tĩnh Hải quân bằng võ lực. Khúc chủ Thừa Mĩ viện cớ họ Lưu tạo phản mà xin triều Lương công nhận, với ý định dựa thế lực lớn hơn để giữ lộc vị.

Tham khảo

Liên kết