Mục từ này cần được bình duyệt
Chùa Dâu
Phiên bản vào lúc 09:41, ngày 10 tháng 1 năm 2023 của Deepmind2 (Thảo luận | đóng góp) (Tạo trang mới với nội dung “<indicator name="mới">File:UnderCon icon.svg|40px|link={{TALKPAGENAME}}#Bình duyệt|alt=Mục từ này cần được bình duyệt|Mục từ này…”)
(khác) ← Phiên bản cũ | xem phiên bản hiện hành (khác) | Phiên bản mới → (khác)

Chùa Dâu (cg.Cổ Châu tự, Diên Ứng tự, Pháp Vân tự, Thiền Định tự, chùa Bà Dâu) di tích kiến trúc nghệ thuật, tên chữ Hán: Ninh Phúc tự,tại huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh.

Theo thư tịch cổ, chùa được khởi dựng ở vùng Dâu (Luy Lâu) vào thế kỷ II đầu Công nguyên, thời kỳ Sĩ Nhiếp (nhà Hán) làm Thái thú quận Giao Châu. Đây được coi là trung tâm Phật giáo đầu tiên của nước ta, là dấu tích quan trọng gắn với quá trình hình thành và phát triển Phật giáo Việt Nam.

Chùa tọa lạc trên một khu đất cao, rộng, bằng phẳng, cảnh quan đẹp, quay về hướng Tây, có bình đồ kiến trúc kiểu “nội Công ngoại Quốc”, gồm các hạng mục: tam quan, tiền thất (bái vọng đường), tháp Hoà Phong, Tam bảo, hậu đường, hai dãy hành lang và các công trình phụ trợ, như: nhà Mẫu và Tổ, nhà khách, vườn tháp, ao chùa, hệ thống tường bao.

Tam quan gồm 3 gian, bộ khung gỗ gác trên 4 hàng chân cột, kết cấu vì nóc kiểu “con chồng, giá chiêng, cốn, bẩy”. Các cấu kiện đều được bào trơn đóng bén, mái lợp ngói, tường hồi bít đốc, mở thông thoáng cả 3 gian.

Tiền thất (bái vọng đường) gồm 7 gian, 2 chái, với mái lợp ngói, đầu đao cong, bộ khung gỗ, các vì nóc đều được kết cấu theo dạng “tiền kẻ, hậu kẻ, câu đầu, trụ nóc”, tì lực trên 4 đầu cột. Hầu hết cấu kiện ở tòa này đều được bào trơn đóng bén, chỉ có những đầu kẻ ở gian giữa được chạm hoa lá cách điệu.


Toàn cảnh chùa. Ảnh: Hồ sơ tư liệu Cục Di sản văn hóa


Toàn cảnh Tháp Hòa Phong (trùng tu năm 1738).

Ảnh: Hồ sơ tư liệu Cục Di sản văn hóa


Hai dãy hành lang: song song với nhau, nối tiền thất và hậu đường. Mỗi dãy gồm 22 gian và được chia thành 2 phần: hành lang phía trước 12 gian và hành lang phía sau 10 gian, được ngăn cách bởi một bộ cửa bức bàn. Hành lang phía sau là nơi thờ 18 vị Tổ Truyền Đăng. Tháp Hoà Phong: được dựng ở giữa sân chùa, kiến trúc của tòa tháp hiện nay là của thời Lê Trung Hưng. Tháp được xây bằng gạch nung già, với 3 tầng, cao 15m. Tầng thứ nhất, mỗi cạnh rộng 6,75m, cao 4,5m, bốn mặt đều có cửa, xây cuốn vòm. Tầng thứ hai cao 4m, mỗi cạnh rộng 6,15m, có 4 cửa cuốn vòm. Trên cùng là vòm mái, được xây cuốn bằng gạch, dáng khum như long đình. Đỉnh tháp được tạo hình như một bình nước cam lộ. Trong lòng tháp, phía dưới có bệ thờ “Tứ trấn” (Tứ Thiên Vương), bằng gỗ phủ sơn, cao 1,60m. Phía trên treo khánh đồng, chuông đồng. Phía trước tam cấp cửa phía Tây có 2 tượng “sóc đá”, mang phong cách nghệ thuật thời Lê Trung Hưng. Bên trái có một tượng cừu đá (dấu ấn của văn hoá phương Bắc, phản ánh sự hiện diện của Thái thú Sĩ Nhiếp khi đóng trị sở ở thành Luy Lâu). Trên tháp Hoà Phong hiện còn một tấm biển bằng đá xanh gắn ở phía Tây (tầng hai) có đề 3 chữ “Hòa Phong tháp”.

Tiền đường: được dựng trên nền thấp hơn thượng điện 0,60m, có chiều rộng 9,50m, chiều dài 21m, cao 0,37m, gồm 7 gian, 2 chái, hai hồi xây bít theo kiểu cột trụ cánh phong. Toà này có 8 bộ vì kèo kiểu “câu đầu, trụ, nóc, cốn, tiền kẻ, hậu bẩy”, kết cấu khung đỡ mái tì lực trên 32 đầu cột. Trên các đầu kẻ, bẩy, cốn đều được chạm nổi hoa văn dạng mây lá, tứ linh, tứ quý, triện dây. Trước nền nhà là tam cấp chạy suốt 5 gian giữa. Ở gian chính giữa có 2 thành bậc đá dài 2,15m, cao 0,65m, chạm rồng mang phong cách nghệ thuật thời Trần. Thiêu hương: còn được gọi là ống muống, nối liền thượng điện và tiền đường, có chiều dài 9,40m, rộng 5,55m, mặt nền thấp hơn thượng điện, gồm 3 gian. Hệ thống đỡ hoành mái gồm 4 bộ vì, mỗi vì đều được gác trên 4 đầu cột.

Thượng điện: được dựng trên nền cao 1,27m, có mặt bằng hình chữ nhật, dài 13,90m, rộng 10,65m, gồm 1 gian, 2 chái, với 4 bộ vì, 4 mái đao cong. Đặc biệt, tại tòa này còn bảo lưu được hai bộ vì nóc kiểu “giá chiêng”, với khoảng giữa gắn hình lá đề chạm nổi đôi rồng chầu mặt trời và hai trụ trốn bên chạm nổi hình phỗng. Thượng điện có các ban thờ Đại Thánh Pháp Vân Phật (gọi tắt là Pháp Vân), tượng Bà Trắng, Bà Đỏ, Thạch Quang Phật, Quan Âm...

Hậu đường: gồm 9 gian, 2 dĩ, bộ khung gỗ, vì nóc được kết cấu theo kiểu “trụ, quá giang, kẻ”.

Nhà Tổ: nằm sát bên trái hậu đường. Đây là tòa nhà 5 gian, tường hồi bít đốc, bộ khung gỗ, vì kèo kiểu “”con chồng, giá chiêng, kẻ truyền”. Tòa này thờ Tổ và thờ Mẫu.

Nhà Khách: gồm 7 gian, tường xây bít đốc, bộ khung gỗ lim, vì nóc kiểu “con chồng, giá chiêng, quá giang, bẩy”.

Vườn Tháp: hiện còn 8 tháp gạch của các sư từng tu tại chùa, có niên đại từ thời Lê đến thời Nguyễn.

Lễ hội CD diễn ra từ ngày 8 - 9 tháng Tư Âm lịch hằng năm với quy mô lớn. Năm ngôi chùa lớn tại ba xã của tỉnh Bắc Ninh thờ Pháp Vân (bà Dâu -chùa Dâu), Pháp Vũ (bà Đậu), Pháp Lôi (bà Tướng), Pháp Điện (bà Dàn) và Phật mẫu Man Nương sẽ lấy CD làm trung tâm, thực hiện nghi lễ rước các bà. Đám rước khi tới CD sẽ tổ chức nghi lễ theo hình thức trò chơi vô cùng độc đáo như trò “mẹ đuổi con” - các kiệu rước chạy 3 vòng, “cướp nước” - các kiệu đua nhau tới cổng Tam Quan để dự đoán tình trạng mùa màng.

CD bố cục chặt chẽ, in đậm dấu ấn kiến trúc, điêu khắc của nhiều thời kỳ lịch sử, với hệ thống tượng pháp mang nghệ thuật đặc sắc của thời Lê - Nguyễn, đặc biệt là hệ thống tượng Tứ Pháp. Đây là một minh chứng sống động của sự dung hội giữa Phật giáo Ấn Độ khi du nhập vào nước ta với tín ngưỡng bản địa của người Việt, đã tạo nên một trung tâm tín ngưỡng, tôn giáo mang bản sắc dân tộc. Các hiện vật lưu giữ trong chùa rất có giá trị, trong đó có pho tượng đã được công nhận bảo vật quốc gia.

CD được xếp hạng di tích quốc gia đặc biệt năm 2013, hiện đặt dưới sự quản lý của Ban Quản lý di tích, trực thuộc Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Bắc Ninh.

Tài liệu tham khảo:[sửa]

  1. Nguyễn Mạnh Cường, Chùa Dâu và hệ thống Tứ pháp (LATS).
  2. Cổ Châu Pháp Vân Phật bản hạnh ngữ lục, Tư liệu viện Hán Nôm.
  3. Nguyễn Bá Lăng, Kiến trúc phật giáo Việt Nam, Tập I, Viện đại học Vạn Hạnh, Sài Gòn, 1972.
  4. Hà Văn Tấn, Chùa Việt Nam, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1992.
  5. Phan Huy Chú, Lịch triều hiến chương loại chí, Tập 1, NXb. Sử học, Hà Nội, 1960.