Alexander Romanovich Luria (1902 - 1977) là một Nhà tâm lý học, nhà tâm lý thần kinh người Nga - người đã tiến hành đột phá trong nghiên cứu chức năng não. Luria được ghi nhận như một người cha đẻ về đánh giá bệnh học thần kinh hiện đại. Ông đã phát triển một loại pin thử nghiệm thần kinh rộng rãi và nguyên bản trong quá trình làm việc lâm sàng với các nạn nhân bị tổn thương não. Trong Chiến tranh Thế giới lần thứ hai, loại pin vẫn được sử dụng dưới nhiều hình thức khác nhau. Ông đã thực hiện một phân tích chuyên sâu về hoạt động của các vùng não khác nhau và các quá trình tích hợp của não nói chung.
Người ta ít biết rằng đóng góp chính của Luria, trước Chiến tranh Thế giới lần thứ hai là đóng góp trong lĩnh vực ngữ nghĩa học (nghĩa là nghiên cứu về cách mọi người gán nghĩa cho từ và chỉ dẫn). Ông trở nên nổi tiếng nhờ những nghiên cứu về dân số có trình độ học vấn thấp ở phía Nam Liên Xô. Ông là một trong những người sáng lập Tâm lý học Lịch sử - Văn hóa và là người lãnh đạo Vòng tròn Vygotsky, còn được gọi là “Vòng tròn Vygotsky - Luria”. Ngoài công việc với Vygotsky, Luria còn được biết đến rộng rãi với hai nghiên cứu trường hợp tâm lý phi thường: Tâm trí của một người theo thuyết ghi nhớ (nghiên cứu về Solomon Shereshevski) - người có trí nhớ rất cao và Người đàn ông với thế giới tan vỡ (kể về một người đàn ông bị chấn thương sọ não).
Trong sự nghiệp của mình, Luria đã làm việc trong một loạt các lĩnh vực khoa học tại các tổ chức như Viện Hàn lâm Khoa học giáo dục (1920 - 1930), Viện Thực nghiệm khiếm khuyết (1920 - 1930; 1950 - 1960 ở Moscow), Học viện Tâm lý học Ukraina (Kharkov) vào đầu những năm 1930, Viện Y học thực nghiệm Liên minh và Viện Phẫu thuật thần kinh Burdenko (cuối những năm 1930). Một khảo sát đánh giá về Tâm lý học đại cương, xuất bản năm 2002, đã xếp Luria là nhà tâm lý học được trích dẫn nhiều thứ 69 trong thế kỷ XX.
Tuổi thơ và gia đình
Luria sinh ngày 16 tháng 7 năm 1902, trong một gia đình cha mẹ là người Do Thái ở Kazan - một trung tâm khu vực phía Đông Moscow. Nhiều người trong gia đình Luria đã làm việc trong ngành Y. Theo nhà viết tiểu sử của Luria, Evgenia Homskaya, cha của ông, Roman Albertovich Luria là giáo sư tại Đại học Kazan và sau Cách mạng Nga, ông trở thành người sáng lập và là giám đốc của Viện Giáo dục Y khoa tiên tiến. Mẹ của Lurria là Evgenia Viktorovna Haskin (tên thời con gái), trở thành nha sĩ thực hành sau khi học xong đại học ở Ba Lan.
Giáo dục và sự nghiệp
Luria hoàn thành việc học trước thời hạn và nhận được văn bằng đầu tiên vào năm 1921 tại Đại học Quốc gia Kazan. Khi còn là một sinh viên ở Kazan, ông đã thành lập Hội Phân tâm học và trao đổi ngắn gọn với Sigmund Freud. Cuối năm 1923, ông chuyển đến Moscow, nơi ông sống trên đường Arbat. Bố mẹ ông sau đó theo anh và định cư gần đó. Tại Moscow, Luria được đề nghị làm việc tại Viện Tâm lý học thực nghiệm Quốc gia Moscow, cơ quan được điều hành bởi Konstantin Kornilov từ tháng 11 năm 1923.
Năm 1924, Luria gặp Lev Vygotsky - người đã ảnh hưởng lớn đến sự nghiệp khoa học của Luria. Sự kết hợp của hai nhà tâm lý học đã sinh ra cái mà sau đó được Vygotsky gọi là Vòng tròn Vygotsky - Luria. Trong những năm 1920, Luria cũng đã gặp một số lượng lớn các học giả có tên tuổi, bao gồm cả Mitchsei N. Leontiev, Mark Lebedinsky, Alexander Zaporozhets, Bluma Zeigarnik. Nhiều người trong số họ vẫn là đồng nghiệp trọn đời của ông. Theo Vygotsky và cùng với Vygotsky, vào giữa những năm 1920, Luria đã khởi động một dự án phát triển tâm lý con người hoàn toàn mới. Cách tiếp cận này hợp nhất tâm lý “văn hóa”, “lịch sử” và “công cụ” và thường được gọi là Tâm lý học văn hóa - lịch sử . Nó nhấn mạnh vai trò trung gian của văn hóa, đặc biệt là ngôn ngữ, trong sự phát triển các chức năng tâm lý cao hơn trong ontogeny và phylogeny. Độc lập với Vygotsky, Luria đã phát triển “phương pháp vận động kết hợp” khéo léo, giúp chẩn đoán các quá trình suy nghĩ và cảm xúc bị che dấu của cá nhân. Nghiên cứu này được công bố tại Mỹ vào năm 1932 với tên gọi Bản chất của xung đột con người (The Nature of Human Conflict) và khiến ông trở nên nổi tiếng trên toàn thế giới với tư cách là một trong những nhà tâm lý học hàng đầu ở Liên Xô. Năm 1937, Luria đã bảo vệ nó với tư cách của luận án tiến sĩ tại Đại học Tbilisi.
Đầu những năm 1930, cả Luria và Vygotsky bắt đầu nghiên cứu y khoa ở Kharkov. Sau cái chết của Vygotsky năm 1934, Luria hoàn thành chương trình giáo dục Y khoa tại Viện Y học số 1 Moscow.
Nghiên cứu về đa văn hóa và thần kinh học
Những năm 1930 rất có ý nghĩa đối với Luria vì những nghiên cứu của ông về người bản địa đã mở ra lĩnh vực nghiên cứu đa văn hóa của Luria. Mối quan tâm này được nhiều học giả và nhà nghiên cứu tiếp tục trong thế kỷ XX. Họ nghiên cứu và bảo vệ người bản địa trên khắp thế giới. Công việc của Luria tiếp tục trong lĩnh vực này với các cuộc thám hiểm đến Trung Á. Dưới sự giám sát của Vygotsky, Luria đã điều tra nhiều về thay đổi tâm lý khác nhau (bao gồm nhận thức, giải quyết vấn đề và trí nhớ) diễn ra do kết quả của sự phát triển văn hóa của các nhóm thiểu số bị suy giảm. Về vấn đề này, ông đã được ghi nhận với một đóng góp lớn cho nghiên cứu về tính công bằng.
Năm 1933, Luria kết hôn với Lana P. Lipchina, một chuyên gia nổi tiếng về vi sinh học với bằng tiến sĩ về khoa học sinh học. Hai vợ chồng sống ở Moscow trên phố Frunze và sinh được con gái duy nhất là Lena (Elena).
Luria cũng nghiên cứu các cặp song sinh giống hệt nhau trong các khu dân cư lớn để xác định sự tương tác của các yếu tố khác nhau của sự phát triển văn hóa và di truyền của con người. Trong công việc nghiên cứu về thần kinh học vào cuối những năm 1930 cũng như trong suốt cuộc đời học thuật sau chiến tranh, ông tập trung vào nghiên cứu về chứng mất ngôn ngữ, tập trung vào mối quan hệ giữa ngôn ngữ, suy nghĩ và chức năng vỏ não, đặc biệt là phát triển các chức năng bù cho bệnh mất ngôn ngữ.
Chiến tranh Thế giới lần thứ hai và những nghiên cứu của Luria
Đối với Luria, Chiến tranh thế giới lần thứ hai với Đức kết thúc vào năm 1945 đã dẫn đến một số phát triển quan trọng cho tương lai của sự nghiệp của ông trong cả tâm lý học và thần kinh học. Ông bảo vệ tiến sĩ khoa học Y khoa năm 1943 và được bổ nhiệm giáo sư năm 1944. Ông được phong giáo sư năm 42 tuổi. Ông là một trong những giáo sư tâm lý trẻ nhất nước.
Điều quan trọng đặc biệt đối với Luria là ông được Chính phủ giao nhiệm vụ chăm sóc cho gần 800 bệnh nhân nhập viện vì chấn thương sọ não do chiến tranh. Phương pháp điều trị của Luria là xử lý một loạt các rối loạn chức năng cảm xúc và trí tuệ. Ông đã ghi chép tỉ mỉ về những bệnh nhân này và nhận ra từ họ ba khả năng phục hồi chức năng: 1) giải ức chế cho một chức năng tạm thời bị ức chế tạm thời; 2) mối liên quan/sự ảnh hưởng gián tiếp tiềm tàng của bán cầu não đối diện và 3) sự tổ chức lại/sắp xếp lại của hệ thống chức năng - điều đã được Luria mô tả trong cuốn sách có tiêu đề Phục hồi chức năng các tổn thương não bộ trong quân sự (Functional Recovery From Military Brain Wounds) (Moscow, 1948, bằng tiếng Nga).
Một cuốn sách thứ hai có tựa đề Hội chứng chấn thương được viết vào năm 1947, trong đó Luria đã hình thành một quan niệm ban đầu về tổ chức thần kinh của lời nói và các rối loạn của nó (aphasias) khác biệt đáng kể với các quan niệm phương Tây hiện có về chứng mất ngôn ngữ. Ngay sau khi kết thúc chiến tranh, Luria được bổ nhiệm vào một vị trí cố định trong ngành Tâm lý học tại Trường Đại học Tổng hợp Quốc gia Moscow (Moscow State University), nơi ông làm việc đến cuối đời. Ông là một trong những người sáng lập và đóng vai trò chủ chốt của Khoa Tâm lý học, Trường Đại học Tổng hợp Quốc gia Moscow. Sau đó ông đứng đầu Khoa học Bệnh học và Thần kinh học.
Sau Chiến tranh Thế giới lần thứ hai, Luria tiếp tục thực hiện công việc của mình tại Viện Tâm lý học Moscow. Trong những năm 1950, ông chuyển sang nghiên cứu về trẻ em bị thiểu năng trí tuệ tại Viện Khiếm khuyết. Tại đây, ông đã thực hiện nghiên cứu tiên phong nhất về tâm lý học trẻ em và có thể tách rời vĩnh viễn khỏi ảnh hưởng bởi nghiên cứu ban đầu của Pavlov.
Luria nói công khai rằng lợi ích riêng của ông bị giới hạn trong một cuộc kiểm tra cụ thể về “hệ thống tín hiệu thứ hai của Pavlov” và không quan tâm đến lời giải thích chính của Pavlov về hành vi của con người dựa trên “phản xạ có điều kiện bằng phương pháp củng cố tích cực”. Sự quan tâm liên tục của Luria về chức năng điều chỉnh của lời nói đã được xem xét lại vào giữa những năm 1950 và được tóm tắt trong chuyên khảo năm 1957 của ông có tựa đề Vai trò của lời nói trong điều chỉnh hành vi bình thường và bất thường. Trong cuốn sách này, Luria đã tóm tắt những mối quan tâm chính của ông trong lĩnh vực này thông qua ba điểm cô đọng được Homskaya tóm tắt là: 1) vai trò của lời nói đối với sự phát triển của các quá trình tâm thần; 2) sự phát triển của chức năng điều tiết của lời nói và 3) thay đổi chức năng điều tiết của lời nói gây ra bởi các bệnh lý não khác nhau.
Những đóng góp chính của Luria cho tâm lý trẻ em trong những năm 1950 được thể hiện trong nghiên cứu gồm hai tập được công bố tại Moscow năm 1956 và 1958 dưới tiêu đề Các vấn đề trong hoạt động cao cấp của hệ thần kinh ở trẻ bình thường và dị thường (Problems of Higher Nervous System Activity in Normal and Anomalous Children).
Vào giữa những năm 1950, Luria lần đầu tiên đề xuất ý tưởng của mình về sự khác biệt của các quá trình thần kinh trong các hệ thống chức năng khác nhau, chủ yếu là trong các hệ thống bằng lời nói và vận động. Luria đã xác định ba giai đoạn phát triển ngôn ngữ ở trẻ em về sự hình thành các cơ chế của hành động tự nguyện: hành động khi không có ảnh hưởng bằng lời nói có quy định, hành động có ảnh hưởng không đặc hiệu và cuối cùng là hành động có chọn lọc ảnh hưởng bằng lời nói. Đối với Luria, chức năng điều chỉnh của lời nói xuất hiện như một yếu tố chính trong việc hình thành hành vi tự nguyện... lúc đầu, chức năng kích hoạt được hình thành và sau đó là chức năng điều tiết, ức chế.
Vào những năm 1960, ở đỉnh cao của Chiến tranh Lạnh, sự nghiệp của Luria đã mở rộng đáng kể với việc xuất bản một số cuốn sách mới. Đáng chú ý là ấn phẩm năm 1962 về Các chức năng cao cấp của vỏ não ở người và sự suy giảm các chức năng này do tổn thương não cục bộ. Cuốn sách đã được dịch ra nhiều thứ tiếng nước ngoài và đã được công nhận là cuốn sách chính thành lập Khoa Thần kinh học là một chuyên ngành y khoa theo đúng nghĩa của nó. Trước đây, vào cuối những năm 1950, sự hiện diện đầy lôi cuốn của Luria tại các hội nghị quốc tế đã thu hút sự chú ý gần như trên toàn thế giới vào nghiên cứu của ông.
Luria đã xuất bản cuốn sách nổi tiếng Hoạt động của não bộ (The Working Brain) vào năm 1973. Trong công trình này, Luria đã tóm tắt lý thuyết toàn cầu gồm ba phần của mình về bộ não hoạt động khi được cấu thành từ ba quá trình hợp tác liên tục, mà ông mô tả là: Hệ thống chú ý (xử lý cảm giác); Hệ thống lập trình mới; Hệ thống bảo trì năng lượng, với hai cấp độ: vỏ não và limbic. Mô hình này sau đó được sử dụng như một cấu trúc của đặc điểm chức năng mô hình kết hợp của dẫn truyền thần kinh hệ thống. Hai cuốn sách được Homskaya coi là “Các tác phẩm chính của Luria về khoa học thần kinh, phản ánh đầy đủ nhất tất cả các khía cạnh (lý thuyết, lâm sàng, thực nghiệm) của ngành học mới này”.
Luria mất vào ngày 14 tháng 8 năm 1977 tại Moscow vì nhồi máu cơ tim.
Giải thưởng và danh dự
Hoạt động khoa học của Luria được công nhận ở đất nước của mình với phần thưởng cao quý là Huân chương Lênin. Ông cũng đã nhận được một số giải thưởng khác của nhà nước Liên Xô và các nước khác.
Luria thông thạo tiếng Anh. Ông đã thực hiện một số chuyến đi đến Hoa Kỳ để giảng bài. Ông là viện sỹ của Viện Hàn lâm Khoa học Quốc gia Hoa Kỳ, thành viên của Học viện Nghệ thuật và Khoa học Hoa Kỳ, thành viên Học viện Giáo dục Hoa Kỳ.
Tài liệu tham khảo
- Vũ Dũng (Chủ biên), Từ điển Tâm lý học, Nxb. Từ điển bách khoa, 2008, tr. 158 - 159.
- Trần Hữu Luyến (sưu tầm và biên soạn), Ngôn ngữ và ý thức của A. R. Luria, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 2019.
- Luria, Aleksandr R., The Mind of a Mnemonist: A Little Book about a Vast Memory, New York: Basic Books, 1968.
- The Gale Encyclopedia of Psychology, secondedition, Bonnie R. Strickland, Executive editor, Copyright 2001 Gale Group 27500 Drake Rd, 2001.
- Strickland B. (Executive editor), The Gale Encyclopedia of Psychology, Gale Group, 2001, pp. 199.
- Freedheim D.K., Handbook of Psychology, Vol. 1, History of Psychology, John Wiley & Sons, 2003, pp. 124 - 125.
- W. Edward Craighead and Charles B. Nemeroff (Editors), The Concise Corsini Encyclopedia of Psychology and Behavioral Science, Published by John Wiley & Sons, Inc, Hoboken, New Jersey, Third edition, 2004, pp. 156 - 157.