Evelyn Hooker (1907 - 1996) là một Nhà tâm lý học người Mỹ, người đã giúp thay đổi định kiến về người đồng tính. Công trình đột phá của Evelyn Hooker về chủ đề đồng tính đã mở đường cho sự chấp nhận nhiều hơn đối với một nhóm người đã bị gắn mác “bất bình thường” trong nhiều năm.
Xã hội hiện đại vẫn tìm ra nhiều cách để phân biệt đối xử đối với đồng tính nam và đồng tính nữ, nhưng trước nghiên cứu của Hook nhiều người đã coi đồng tính luyến ái như một chứng rối loạn tâm thần chân chính. Nghiên cứu của Hoer đã chứng minh rằng, ngoài sở thích tình dục của họ, không có sự khác biệt tâm lý nào có thể chứng minh được giữa những người dị tính và đồng tính luyến ái.
Evelyn (Gentry) Hooker được sinh ra tại trang trại ở North Platte, Nebraska vào ngày 2 tháng 9 năm 1907. Khi Hooker đến tuổi trung học, gia đình chuyển đến Sterling, Colorado, nơi Hooker theo học tại một trường trung học lớn và tiến bộ đáng ngạc nhiên.
Ban đầu Hooker dự định vào trường đại học sư phạm, nhưng những người hướng dẫn của cô, nhận ra tiềm năng của cô, đã thuyết phục cô thay vào đó đến Đại học Colorado, nơi cô đăng ký vào năm 1924. Hooker đã tham gia một khóa học với nhà tâm lý học Karl Muenzinger và quyết định theo học chuyên ngành tâm lý học. Hooker nhận bằng Tiến sĩ vào năm 1932.
Bị ảnh hưởng bởi những kinh nghiệm của châu Âu[sửa]
Hooker nhận một vị trí giảng dạy trong một trường đại học dành cho nữ bên ngoài Baltimore. Bị bệnh lao vào năm 1934, Hooker buộc phải dành hai năm tiếp theo trong một viện điều dưỡng ở California. Hooker bắt đầu giảng dạy bán thời gian và năm 1937 được trao học bổng để theo học tại Viện Tâm lý trị liệu ở Berlin. Khi trở về Mỹ, cô đảm nhận vị trí cộng tác viên nghiên cứu tại Đại học California tại Los Angeles (UCLA). Hooker nhanh chóng nổi tiếng là một giáo viên xuất sắc và cô tiếp tục nghiên cứu. Năm 1941, cô kết hôn với Donn Caldwell, một nhà văn. Cuộc hôn nhân kết thúc vào năm 1947 và Hooker kết hôn với Edward Niles Hooker, một giáo sư tiếng Anh tại UCLA. Trong khi cả hai sự kiện này đều có ý nghĩa quan trọng trong cuộc đời của Hook, thì có một sự kiện khác chứng tỏ sự nghiệp của cô rất quan trọng. Sam From, người đã tham gia một khóa học do Hooker giảng dạy vào những năm 1940, là một người đồng tính.
Các thí nghiệm xua tan niềm tin về người đồng tính[sửa]
Các thí nghiệm của Hooker khá đơn giản. Hooker tập hợp các nhóm đàn ông đồng tính luyến ái và dị tính luyến ái và thực hiện một loạt các bài kiểm tra tâm lý tiêu chuẩn cho họ. Kết quả thử nghiệm sau đó được trình bày cho một hội đồng chuyên gia về các cuộc đánh giá. Không ai trong hội đồng có thể xác định đối tượng nào là dị tính và đồng tính luyến ái. Hơn nữa, họ đã cho các đối tượng đồng tính luyến ái điểm cao về khả năng điều chỉnh cảm xúc và phát triển nhân cách. Hooker đã trình bày kết quả của mình trong một loạt bài báo vào những năm 1950, bài báo quan trọng nhất trong số đó là bài báo năm 1957 được xuất bản trên Tạp chí Projective Techniques có tựa đề “Sự điều chỉnh của tình trạng đồng tính luyến ái nam quá mức”. Bà tiếp tục nghiên cứu của mình trong suốt những năm 1960 và vào năm 1967, được bổ nhiệm làm trưởng nhóm nghiên cứu về các vấn đề đồng tính cho Viện Sức khỏe Tâm thần Quốc gia. Một trong những bước đột phá lớn nhất xảy ra vào năm 1973, khi Hiệp hội Tâm thần Hoa Kỳ loại bỏ đồng tính luyến ái khỏi sổ tay chẩn đoán của mình - thực tế là đồng tính luyến ái không còn được công nhận là một dạng bệnh tâm thần.
Năm 1991 bà được trao giải của Hiệp hội Tâm lý học Mỹ (American Psychological Association) - giải thưởng cho những đóng góp xuất sắc cho Tâm lý học trong các lợi ích cộng đồng. Bà qua đời tại nhà riêng ở Santa Monica, California, vào ngày 18 tháng 11 năm 1996.
Tài liệu tham khảo[sửa]
- Evelyn Hooker, Ph.D. https://psychology.ucdavis.edu/rainbow/html/hooker2.html, 1992.
- Evelyn Hooker, https://en.wikipedia.org/wiki/Evelyn_Hooker, 2010.
- By Katharine S. Milar, The Myth buster. Evelyn Hooker’s groundbreaking research exploded the notion that homosexuality was a mental illness, ultimately removing it from the DSM. https://www.apa.org/monitor/2011/02/myth-buster, 2011.