Chứng khó đọc (tiếng Anh AGRAPHIA) là một dạng rối loạn hệ thống văn bản viết do tổn thương não bộ. Bệnh biểu thị sự xáo trộn trong các hình thức trình bày khác nhau về văn bản. Rối loạn không gian hoặc rối loạn apraxic cũng có thể tham gia vào chứng bệnh này. Nó không phụ thuộc vào vận động hoặc suy giảm cảm giác mặc dù sự kết hợp này có thể xảy ra. Tổn thương callosal có thể gây ra đơn phương chứng khó đọc. Sự thiếu hụt ngôn ngữ supramodal cũng được phản ánh thông qua mô hình và mức độ nghiêm trọng của chứng khó đọc.
Tần suất xảy ra chứng khó đọc hiếm khi cùng tồn tại với alexia hoặc trong sự cô lập. Dấu ấn của nó ở đoạn văn trên một chữ cái (nghĩa đen) hoặc trên mức độ từ (bằng lời nói hoặc ngữ nghĩa). Người bị chứng khó đọc thường không kiên trì và gặp những khó khăn về cú pháp hoặc tìm từ phù hợp trong ngôn ngữ nói.
Mô hình viết[sửa]
Mô hình hệ thống ngôn ngữ trung tâm bao gồm ba thành tố: âm vị, từ vựng và cú pháp. Trong hệ thống ngôn ngữ văn bản thứ cấp có thêm hệ thống chuyển đổi âm vị, kích hoạt cho các chữ cái và hệ thống viết chính tả. Trong khi các chuỗi chữ cái được tạo ra thông qua tuyến âm vị, các từ được tạo ra thông qua hệ thống ngữ nghĩa, người đọc có thể dựa vào một hoặc cả hai hệ thống đó khi họ đọc.
Khám lâm sàng cho người bị chứng khó đọc bao gồm cho họ tự viết ra để đọc chính tả và đặt tên cho văn bản. Nếu một cánh tay bệnh nhân viết bị tê liệt thì cánh tay thứ hai có thể tiến hành. Để bù lại cho khả năng vận động suy yếu của chữ hoặc từ có thể sử dụng vật liệu in tổng hợp để kiểm tra động cơ đọc và tổng hợp chữ bằng các que diêm, đánh vần bằng miệng và đọc cũng rất hữu ích.
Sự khác biệt lâm sàng[sửa]
Chứng khó đọc (Agraphia) thuần khiết thể hiện ở chỗ không có khả năng viết khi không mất ngôn ngữ hoặc alexia, dẫn đến viết nguệch ngoạc hoặc sai chính tả. Có thể tạo từ đơn giản, dễ đọc trong thời gian ngắn. Các tổn thương được tìm thấy ở vùng chẩm trái hoặc vùng trước thứ hai (trung tâm Exner). Sự khác biệt này giữa chứng khó đọc thuần khiết với alexia được một số nhà nghiên cứu đặt ra.
Aphasic Agraphia là bệnh một phần của chứng mất ngôn ngữ, những người bị bệnh này phản ánh kiểu agraphia và mức độ nghiên trọng của bệnh. Do vậy để sàng lọc agraphia có thể sử dụng trắc nghiệm. Các tổn thương nằm trong các vùng ngôn ngữ cổ điển (trong sự phân bố của động mạch não giữa). Về mặt ngôn ngữ thần kinh có thể xác định được ba loại:
- Lexical agraphia bao gồm không có khả năng chuyển đổi âm vị sang đồ thị đặc biệt đối với cách đọc theo chữ cái. Cá nhân viết ngữ âm mà không kiểm soát được từ vựng. Các tổn thương thường ở thùy đỉnh trên, sau và góc cạnh gyrus.
- Phonologic agraphia bao gồm viết từ thiếu. Cá nhân không tạo ra được toàn bộ tổng thể của từ, không thể viết theo kiểu từng chữ cái. Cá nhân thất bại trong phát âm các từ không có cảm xúc, trong khi đó lại rất thành công trong phát âm các từ có hình tượng rõ rệt. Bệnh nhân tổn thương ở phía trước supramarginal- gyrus hoặc insula liền kề. Bệnh nhân mắc chứng agraphia ý nghĩa có thể thành công khi viết các từ thực tế và các từ không chứa đựng cảm xúc nhưng gặp khó khăn trong viết tên hoặc văn bản đối lập.
- Agraphia không gian thể hiện ở các chữ hoặc từ đặt không chính xác vào vị trí, đóng kín về hình thức hoặc hình dạng và kích thước không đồng đều. Bỏ qua từ agraphia hoặc chữ cái ở lề của trang giấy, các dòng hiện thị độ dốc về một phía. Bệnh nhân thường tổn thương não phải, các chấn thương thể hiện sự thiếu hụt không gian trong khi thực hiện các nhiệm vụ phi ngôn ngữ.
Apraxic agraphia thể hiện trình bày các từ không đúng hoặc nhầm lẫn theo họa đồ thay vì giống nhau về ngữ âm. Sự biểu hiện này là hậu quả của việc mất đi chương trình động cơ cần thiết để viết...
Tài liệu tham khảo[sửa]
- Vũ Dũng (Chủ biên), Từ điển Tâm lý học, Nxb. Từ điển bách khoa, 2008.
- Benson D.F. & Cummings J., Agraphia in J.A.M., 1985.
- Hinkin C.H. & Cummings J.L., Agraphia in J.G., Beaumont P.M., 1996.
- Frederiks (Ed), Handbook of Clinical neurology: Vol. 1. Clinical neuropsychology, 2021.