Mục từ này cần được bình duyệt
Kỷ Jura
Phiên bản vào lúc 09:46, ngày 5 tháng 1 năm 2022 của Marrella (Thảo luận | đóng góp)
Siêu lục địa Pangaea tại điểm khởi đầu kỷ Jura, khoảng 200 triệu năm trước

Kỷ Jurakỷ địa chất kéo dài 56 triệu năm từ lúc kỷ Trias kết thúc 201 triệu năm trước đến khi kỷ Creta bắt đầu 145 triệu năm trước.[1][2] Kỷ này được đặt tên theo dãy núi Jura nằm dọc biên giới giữa Pháp và Thụy Sĩ.[2][3]

Kỷ Jura bắt đầu với sự kiện tuyệt chủng Trias–Jura, một trong những vụ tuyệt chủng hàng loạt lớn nhất liên đại Hiển Sinh.[4][5]

Xuyên suốt kỷ Jura, cũng như hầu hết đại Trung Sinh, những cánh rừng rậm mọc lên gần hai cực và đón ánh nắng liên tục trong hàng tháng.[6] Mực nước biển nhiều lúc cao hơn ngày nay gần 100 m và đại dương nhìn chung ấm hơn.[7] Dưới đại dương sâu, nhiệt độ cao hơn ngày nay khoảng 8 °C.[6] Khí hậu toàn cầu ấm hơn khoảng 5 đến 10 °C, tạo độ ẩm không khí cao và tăng cường đáng kể chu kỳ thủy văn.[6] Mưa chủ yếu diễn ra ở đại dương, để cho những hoang mạc lớn mở rộng trong lục địa.[6] Các phiến băng cực hay chỏm băng mặt đất hầu như không tồn tại do nhiệt độ mùa hè cao.[6] Khí hậu ấm áp đi kèm với nồng độ CO2 khí quyển cao gấp ít nhất bốn lần ngày nay.[6]

Tham khảo

  1. Foster 2020, tr. 4-5.
  2. a b Torsvik & Cocks 2016, tr. 209.
  3. Ogg, Ogg & Gradstein 2016, tr. 151.
  4. Hallam, A. (1990), "The end-Triassic mass extinction event", trong Sharpton, Virgil L.; Ward, Peter D. (bt.), Geological Society of America Special Papers, Geological Society of America, tr. 577–584, doi:10.1130/SPE247-p577
  5. Deng, Shenghui; Lu, Yuanzheng; Xu, Daoyi (tháng 12 năm 2005), "Progress and review of the studies on the end-Triassic mass extinction event", Science in China Series D: Earth Sciences, 48 (12): 2049–2060, doi:10.1360/082005-106, S2CID 128660096
  6. a b c d e f Sellwood, Bruce W.; Valdes, Paul J. (tháng 1 năm 2008), "Jurassic climates", Proceedings of the Geologists' Association, 119 (1): 5–17, doi:10.1016/S0016-7878(59)80068-7
  7. Foster 2020, tr. 48.

Sách