(Tạo trang mới với nội dung “'''Dĩ Hoa vi Trung''' (chính văn : 以華為中) là ý thức hệ được cho khởi phát từ thời Chiến Quốc và có tầm ảnh hưở…”) |
|||
Dòng 3: | Dòng 3: | ||
'''Dĩ Hoa vi Trung''' hoặc '''dĩ hoa vi trung''' đều đúng, được diễn [[Nôm]] là "lấy văn-minh làm căn-bản". Hoa (華) trong khái niệm nguyên thủy là sự sáng hoặc vùng đã khai hóa, không nội hàm yếu tố quốc gia như mãi về sau. Sự sáng đối lập sự tối, từ đấy suy rộng ra, Man Di (蠻夷) là các vùng u tối hoặc bán khai và vây lấy vùng văn minh. Vì thế, học giới hiện đại thường gọi '''tư tưởng Hoa Di'''. | '''Dĩ Hoa vi Trung''' hoặc '''dĩ hoa vi trung''' đều đúng, được diễn [[Nôm]] là "lấy văn-minh làm căn-bản". Hoa (華) trong khái niệm nguyên thủy là sự sáng hoặc vùng đã khai hóa, không nội hàm yếu tố quốc gia như mãi về sau. Sự sáng đối lập sự tối, từ đấy suy rộng ra, Man Di (蠻夷) là các vùng u tối hoặc bán khai và vây lấy vùng văn minh. Vì thế, học giới hiện đại thường gọi '''tư tưởng Hoa Di'''. | ||
− | Cứ liệu cổ nhất đề cập ý thức hệ này là ''[[Chiến Quốc sách]]'' do [[Lưu Hướng]] (77 - 06 TCN) chủ biên, nhưng thực chất bổ khuyết những tư liệu đời trước. Kế tục ''[[Chiến Quốc sách]]'', ý thức hệ dần hoàn thiện với các lối gọi vùng văn minh hoặc sự văn hiến là ''trung hoa'', ''trung hạ'', ''trung quốc'', ''trung thổ'', ''trung châu'', ''hoa hạ'' - đều hàm nghĩa khu vực trung tâm thế giới. Các chính thể coi quản đất ấy được gọi ''thiên triều'' hoặc ''thượng quốc'', nghĩa là có sứ mạng thế thiên hành đạo, hay giáo hóa. Đồng thời, quan niệm này cũng chia Man Di thành ''tứ di'' hoặc ''tứ hải'', gồm : ''Đông di'', ''Nam man'', ''Tây nhung'', ''Bắc địch''. Cũng lưu ý rằng, đây là cách gọi phiếm, không chỉ đích danh quốc gia hay bộ lực nào trong thực tế ; bởi ở ngữ cảnh cổ đại, sự am hiểu về thế giới thường mang tính khẩu truyền và rất hạn hẹp. | + | Cứ liệu cổ nhất đề cập ý thức hệ này là ''[[Chiến Quốc sách]]'' do [[Lưu Hướng]] (77 - 06 TCN) chủ biên, nhưng thực chất bổ khuyết những tư liệu đời trước. Kế tục ''[[Chiến Quốc sách]]'', ý thức hệ dần hoàn thiện với các lối gọi vùng văn minh hoặc sự văn hiến là ''trung hoa'', ''trung hạ'', ''trung quốc'', ''trung thổ'', ''trung châu'', ''hoa hạ'' - đều hàm nghĩa khu vực trung tâm thế giới. Các chính thể coi quản đất ấy được gọi ''thiên triều'' hoặc ''thượng quốc'', nghĩa là có sứ mạng thế thiên hành đạo, hay giáo hóa ; người cư trú ở đất như vậy đôi khi được gọi ''hoa nhân'', ''hạ nhân'' hoặc ''hán nhân''. Đồng thời, quan niệm này cũng chia Man Di thành ''tứ di'' hoặc ''tứ hải'', gồm : ''Đông di'', ''Nam man'', ''Tây nhung'', ''Bắc địch''. Cũng lưu ý rằng, đây là cách gọi phiếm, không chỉ đích danh quốc gia hay bộ lực nào trong thực tế ; bởi ở ngữ cảnh cổ đại, sự am hiểu về thế giới thường mang tính khẩu truyền và rất hạn hẹp. |
==Xem thêm== | ==Xem thêm== | ||
* [[Lí tưởng]] | * [[Lí tưởng]] |
Phiên bản lúc 22:22, ngày 6 tháng 10 năm 2020
Dĩ Hoa vi Trung (chính văn : 以華為中) là ý thức hệ được cho khởi phát từ thời Chiến Quốc và có tầm ảnh hưởng sâu rộng trong các thành viên Hán tự văn hóa quyển. Ở hậu kì hiện đại, thế giới quan này thường bị nhầm là tư tưởng bá quyền Trung Hoa, bất chấp nội hàm văn hiến phức tạp của nó.
Thuật ngữ
Dĩ Hoa vi Trung hoặc dĩ hoa vi trung đều đúng, được diễn Nôm là "lấy văn-minh làm căn-bản". Hoa (華) trong khái niệm nguyên thủy là sự sáng hoặc vùng đã khai hóa, không nội hàm yếu tố quốc gia như mãi về sau. Sự sáng đối lập sự tối, từ đấy suy rộng ra, Man Di (蠻夷) là các vùng u tối hoặc bán khai và vây lấy vùng văn minh. Vì thế, học giới hiện đại thường gọi tư tưởng Hoa Di.
Cứ liệu cổ nhất đề cập ý thức hệ này là Chiến Quốc sách do Lưu Hướng (77 - 06 TCN) chủ biên, nhưng thực chất bổ khuyết những tư liệu đời trước. Kế tục Chiến Quốc sách, ý thức hệ dần hoàn thiện với các lối gọi vùng văn minh hoặc sự văn hiến là trung hoa, trung hạ, trung quốc, trung thổ, trung châu, hoa hạ - đều hàm nghĩa khu vực trung tâm thế giới. Các chính thể coi quản đất ấy được gọi thiên triều hoặc thượng quốc, nghĩa là có sứ mạng thế thiên hành đạo, hay giáo hóa ; người cư trú ở đất như vậy đôi khi được gọi hoa nhân, hạ nhân hoặc hán nhân. Đồng thời, quan niệm này cũng chia Man Di thành tứ di hoặc tứ hải, gồm : Đông di, Nam man, Tây nhung, Bắc địch. Cũng lưu ý rằng, đây là cách gọi phiếm, không chỉ đích danh quốc gia hay bộ lực nào trong thực tế ; bởi ở ngữ cảnh cổ đại, sự am hiểu về thế giới thường mang tính khẩu truyền và rất hạn hẹp.