Mục từ này cần được bình duyệt
Khác biệt giữa các bản “Đất phù sa sông Hồng”
 
(Không hiển thị 9 phiên bản của 2 người dùng ở giữa)
Dòng 1: Dòng 1:
 
{{mới}}
 
{{mới}}
Đất phù sa sông Hồng là thuật ngữ ngắn gọn của của loại đất Phù sa hệ thống sông Hồng theo phân loại đất Việt Nam. ĐPSSH  thường có màu nâu tươi, nâu tím có tầng đất dày, được hình thành do sự bồi tụ phù sa và trầm tích của hệ thống sông Hồng. Hệ thống sông Hồng là một mạng lưới các con sông (sông Hồng, sông Đà, sông Chảy, sông Lô, sông Thái Bình, sông Luộc, sông Kinh Thày, sông Hóa và sông Cấm) góp nước hoặc nhận nước từ con sông chính là sông Hồng và đổ ra biển Đông ở các cửa Ba Lạt, Diêm Hộ, Trà Lý, Lân, So, Lạch Giang, Đáy, Lạch Càn thuộc các tỉnh/thành: Hải Phòng, Thái Bình, Nam Định và Ninh Bình. Tổng diện tích đất phù sa sông Hồng khoảng 764.200 ha (đo theo bản đồ đất Việt Nam 1/1.000.000), tập trung chủ yếu ở các tỉnh/thành: Vĩnh Phúc, Hà Nội, Hưng Yên, Hà Nam, Nam Định, Thái Bình.  Đất phù sa sông Hồng được coi là đất “bờ xôi, ruộng mật” tốt nhất Việt Nam, vào loại tốt nhất thế giới xét về sức sản xuất của đất, là đất lý tưởng để trồng nhiều loại cây như: lúa, ngô, đậu đỗ, lạc, khoai, các loại rau và cây ăn quả.
+
[[File:Sông Hồng, đoạn qua cầu Vĩnh Tuy.JPG|nhỏ|phải|Sông Hồng, đoạn qua cầu Vĩnh Tuy, Hà Nội.]]
 +
'''Đất phù sa sông Hồng''' là thuật ngữ ngắn gọn của của loại đất [[phù sa]] hệ thống [[sông Hồng]] theo phân loại đất Việt Nam. Đất phù sa sông Hồng thường có màu nâu tươi, nâu tím có tầng đất dày, được hình thành do sự bồi tụ phù sa và trầm tích của hệ thống sông Hồng. Hệ thống sông Hồng là một mạng lưới các con sông (sông Hồng, sông Đà, sông Chảy, sông Lô, sông Thái Bình, sông Luộc, sông Kinh Thày, sông Hóa và sông Cấm) góp nước hoặc nhận nước từ con sông chính là sông Hồng và đổ ra biển Đông ở các cửa Ba Lạt, Diêm Hộ, Trà Lý, Lân, So, Lạch Giang, Đáy, Lạch Càn thuộc các tỉnh/thành: Hải Phòng, Thái Bình, Nam Định và Ninh Bình. Tổng diện tích đất phù sa sông Hồng khoảng 764.200 ha (đo theo bản đồ đất Việt Nam 1/1.000.000), tập trung chủ yếu ở các tỉnh/thành: Vĩnh Phúc, Hà Nội, Hưng Yên, Hà Nam, Nam Định, Thái Bình.  Đất phù sa sông Hồng được coi là đất “bờ xôi, ruộng mật” tốt nhất Việt Nam, vào loại tốt nhất thế giới xét về sức sản xuất của đất, là đất lý tưởng để trồng nhiều loại cây như: lúa, ngô, đậu đỗ, lạc, khoai, các loại rau và cây ăn quả.
  
 
==Các loại đất phù sa sông Hồng==
 
==Các loại đất phù sa sông Hồng==
Dòng 28: Dòng 29:
 
Về thành phần cơ giới theo phân loại 3 cấp (thịt, limon, cát) thì đất phù sa sông Hồng có chủ yếu các cấp hạt limon, hàm lượng sét từ 21,4 – 31,4%, limon từ 54,2 – 57,2% còn lại là cát từ 14,4 – 21,4%. Tùy thuộc cự ly phân bố của đất so với sông và từ thượng lưu xuống hạ lưu mà thành phần cơ giới của đất phù sa sông Hồng có thể thay đổi từ cát pha đến thịt nhẹ, thịt, hay thịt nặng.
 
Về thành phần cơ giới theo phân loại 3 cấp (thịt, limon, cát) thì đất phù sa sông Hồng có chủ yếu các cấp hạt limon, hàm lượng sét từ 21,4 – 31,4%, limon từ 54,2 – 57,2% còn lại là cát từ 14,4 – 21,4%. Tùy thuộc cự ly phân bố của đất so với sông và từ thượng lưu xuống hạ lưu mà thành phần cơ giới của đất phù sa sông Hồng có thể thay đổi từ cát pha đến thịt nhẹ, thịt, hay thịt nặng.
  
Bảng 1 trình bày thành phần cấp hạt của ĐPSSH theo phân chia 4 cấp từ 2 mm đến nhỏ hơn 0,002 mm.
+
Bảng 1 trình bày thành phần cấp hạt của đất phù sa sông Hồng theo phân chia 4 cấp từ 2 mm đến nhỏ hơn 0,002 mm.
  
Bảng 1.  Thành phần cơ giới ĐPSSH theo phân loại 4 cấp
+
{| class="wikitable" style="margin-left: auto; margin-right: auto; border: none;"
 +
|+ Bảng 1.  Thành phần cơ giới đất phù sa sông Hồng theo phân loại 4 cấp
 +
|-
 +
! rowspan="2" | Thông số thống kê !! colspan="4" | Thành phần cơ giới (%)
 +
|-
 +
| 2 - 0,2 (mm) || 0,2 - 0,02 (mm) || 0,02 - 0,002 (mm) || < 0,002 (mm)
 +
|-
 +
| Trung bình (<math>\bar{\text{m}}</math>) || 2,5 || 23,7 || 38,9 || 34,8
 +
|-
 +
| Độ lệch chuẩn || 2,7 || 10,8 || 13,1 || 6,9
 +
|-
 +
| Trung vị || 1,9 || 23,2 || 33,9 || 36,8
 +
|-
 +
| < <math>\bar{\text{m}}</math>, 95% < || 0,1 - 5,0 || 13,7 - 33,7 || 26,8 - 51,1 || 28,4 - 41,2
 +
|}
  
 +
==Độ chua đất phù sa sông Hồng (pH)==
  
Thông số  
+
Độ chua hay pH của đất là chỉ số quan trọng đầu tiên cần xem xét khi đánh giá chất lượng đất. Xác định độ chua của đất thông qua máy đo pH. Những loại đất có độ phì nhiêu cao đều phải có một giới hạn pH nhất định không quá chua hoặc quá kiềm. Thường có hai dung môi sử dụng để xác định độ chua của đất là nước hoặc KCl, cho hai giá trị pHH2O hay pHKCl.  Giá trị pHH2O là độ chua thực tại gây nên bởi các proton tự do có ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống cây trồng và hoạt động sinh khối trong đất. Giá trị pHKCl thể hiện độ chua trao đổi, là độ chua tiền năng, trong đó các ion có tính axit (H+, Al3+),…) trên bề mặt keo đất có thể được đẩy ra dung dịch đất làm cho đất chua; đất phù sa sông Hồng phổ biến có pHH2O dao động từ 5,33-5,76; pHKCl dao động từ 4,58-4,99. Như vậy so với các kết quả nghiên cứu trước đây giai đoạn 1960-1980, trung bình đất phù sa sông Hồng hiện nay đã chua hơn trước 0,5 đơn vị. Các nguyên nhân của sự chua hóa chủ yếu do sử dụng quá nhiều phân bón hóa học, sự rửa trôi theo chiều thẳng đứng ở các địa hình vàn cao.
  
thống kê Thành phần giới (%)
+
==Hàm lượng hữu đất phù sa sông Hồng (OM, %)==
  
2 - 0,2  
+
Rất nhiều người đồng ý rằng: đất (Soil) là " Tâm hồn của Cuộc sống Vô tận (Soul of the Infinite Life)", đất khác đá mẹ trước hết ở chỗ trong đất có chất hữu cơ. Những nghiên cứu thổ nhưỡng học trên thế giới và Việt Nam đều khẳng định: chất hữu cơ trong đất giữ vai trò to lớn trong việc duy trì và nâng cao độ phì nhiêu thực tế của đất, bao gồm điều tiết dinh dưỡng, chế độ nước, chế độ nhiệt... trong môi trường đất. Có thể nói trong đất chất hữu cơ tham gia hầu hết vào các sự kiện di đổi vật chất, bao gồm các quá trình vật lý, hoá học và sinh học đất. Thông thường đánh giá chỉ tiêu hữu cơ trong đất (OM, %) thông qua phân tích các bon hữu cơ (OC) theo phương pháp Walkley-Black. Trung bình, đất phù sa sông Hồng có các bon hữu cơ dao động từ 1,3-1,6%. Đất phù sa sông Hồng ngoài đê được bồi đắp phù sa thường xuyên nên lượng các bon hữu cơ thấp, có thể dưới 1%; Đất phù sa sông Hồng ở vùng trũng, thoát nước kém, hoạt động khoáng hóa kém, lượng các bon hữu cơ có thể cao hơn 2,2%.
  
(mm) 0,2 - 0,02
+
==Kali trong đất phù sa sông Hồng (K2O, %)==
 
 
(mm) 0,02 - 0,002
 
 
 
(mm) < 0,002
 
 
 
(mm)
 
 
 
Trung bình ( )
 
 
 
2,5 23,7 38,9 34,8
 
 
 
Độ lệch chuẩn 2,7 10,8 13,1 6,9
 
 
 
Trung vị 1,9 23,2 33,9 36,8
 
 
 
<  , 95% <
 
 
 
0,1 - 5,0 13,7 - 33,7 26,8 - 51,1 28,4 - 41,2
 
 
 
 
 
 
 
Độ chua đất phù sa sông Hồng (pH)
 
 
 
Độ chua hay pH của đất là chỉ số quan trọng đầu tiên cần xem xét khi đánh giá chất lượng đất. Xác định độ chua của đất thông qua máy đo pH. Những loại đất có độ phì nhiêu cao đều phải có một giới hạn pH nhất định không quá chua hoặc quá kiềm. Thường có hai dung môi sử dụng để xác định độ chua của đất là nước hoặc KCl, cho hai giá trị pHH2O hay pHKCl.  Giá trị pHH2O là độ chua thực tại gây nên bởi các proton tự do có ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống cây trồng và hoạt động sinh khối trong đất. Giá trị pHKCl thể hiện độ chua trao đổi, là độ chua tiền năng, trong đó các ion có tính axit (H+, Al3+),…) trên bề mặt keo đất có thể được đẩy ra dung dịch đất làm cho đất chua; đất phù sa sông Hồng phổ biến có pHH2O dao động từ 5,33-5,76; pHKCl dao động từ 4,58-4,99. Như vậy so với các kết quả nghiên cứu trước đây giai đoạn 1960-1980, trung bình ĐPSSH hiện nay đã chua hơn trước 0,5 đơn vị. Các nguyên nhân của sự chua hóa chủ yếu do sử dụng quá nhiều phân bón hóa học, sự rửa trôi theo chiều thẳng đứng ở các địa hình vàn cao.
 
 
 
 
 
Hàm lượng hữu cơ đất phù sa sông Hồng (OM, %)
 
 
 
 
 
Rất nhiều người đồng ý rằng: đất (Soil) là " Tâm hồn của Cuộc sống Vô tận (Soul of the Infinite Life)", đất khác đá mẹ trước hết ở chỗ trong đất có chất hữu cơ. Những nghiên cứu thổ nhưỡng học trên thế giới và Việt Nam đều khẳng định: chất hữu cơ trong đất giữ vai trò to lớn trong việc duy trì và nâng cao độ phì nhiêu thực tế của đất, bao gồm điều tiết dinh dưỡng, chế độ nước, chế độ nhiệt... trong môi trường đất. Có thể nói trong đất chất hữu cơ tham gia hầu hết vào các sự kiện di đổi vật chất, bao gồm các quá trình vật lý, hoá học và sinh học đất. Thông thường đánh giá chỉ tiêu hữu cơ trong đất (OM, %) thông qua phân tích các bon hữu cơ (OC) theo phương pháp Walkley-Black. Trung bình, đất phù sa sông Hồng có các bon hữu cơ dao động từ 1,3-1,6%. Đất phù sa sông Hồng ngoài đê được bồi đắp phù sa thường xuyên nên lượng các bon hữu cơ thấp, có thể dưới 1%; ĐPSSH ở vùng trũng, thoát nước kém, hoạt động khoáng hóa kém, lượng các bon hữu cơ có thể cao hơn 2,2%.
 
 
 
 
 
Kali trong ĐPSSH (K2O, %)
 
  
 
Cùng với đạm và lân, kali (K) là nguyên tố dinh dưỡng đa lượng quan trọng trong đời sống cây trồng. Theo các nghiên cứu về khoáng học, trong đá K có khoảng 2,6%, còn trong đất K có khoảng 0,83%. Số liệu này chứng tỏ rằng kali bị rửa trôi trong quá trình phong hoá đá hình thành đất. Trong sự phát triển của ngành thổ nhưỡng học thế giới, những nghiên cứu về kali trong đất rất nhiều và K thường được dùng cho nghiên cứu mẫu nhiệt động học các phản ứng trao đổi trong đất từ những năm đầu của thế kỷ 20. Tuy vậy, ở Việt Nam các nghiên cứu về kali trong đất mới chỉ phát triển từ những năm sau 1970. Khoáng vật trong đất chứa kali hay được nói tới là các alumino-silicát như: kali phiến thạch, leuxit -KAl(SiO3)2, K-kính, saniđin, muscovit -KAl3Si3O10(OH)2, ilit... Trong đất, kali có mặt trong thành phần tất cả các cấp hạt nhưng chủ yếu là ở cấp hạt sét và hạt limon chưa phong hoá. Thường dùng chỉ tiêu kali tổng số để đánh giá tiềm năng kali của đất. Nguyễn Vy, Trần Khải (1978) lưu ý việc tính đến đồng thời cả thành phần cấp hạt và tính chất khoáng sét để dự báo hàm lượng kali trong đất. Sự phân bố về mức kali trong đất thực chất phụ thuộc vào đá mẹ, mức độ phong hoá, địa hình và chế độ canh tác.
 
Cùng với đạm và lân, kali (K) là nguyên tố dinh dưỡng đa lượng quan trọng trong đời sống cây trồng. Theo các nghiên cứu về khoáng học, trong đá K có khoảng 2,6%, còn trong đất K có khoảng 0,83%. Số liệu này chứng tỏ rằng kali bị rửa trôi trong quá trình phong hoá đá hình thành đất. Trong sự phát triển của ngành thổ nhưỡng học thế giới, những nghiên cứu về kali trong đất rất nhiều và K thường được dùng cho nghiên cứu mẫu nhiệt động học các phản ứng trao đổi trong đất từ những năm đầu của thế kỷ 20. Tuy vậy, ở Việt Nam các nghiên cứu về kali trong đất mới chỉ phát triển từ những năm sau 1970. Khoáng vật trong đất chứa kali hay được nói tới là các alumino-silicát như: kali phiến thạch, leuxit -KAl(SiO3)2, K-kính, saniđin, muscovit -KAl3Si3O10(OH)2, ilit... Trong đất, kali có mặt trong thành phần tất cả các cấp hạt nhưng chủ yếu là ở cấp hạt sét và hạt limon chưa phong hoá. Thường dùng chỉ tiêu kali tổng số để đánh giá tiềm năng kali của đất. Nguyễn Vy, Trần Khải (1978) lưu ý việc tính đến đồng thời cả thành phần cấp hạt và tính chất khoáng sét để dự báo hàm lượng kali trong đất. Sự phân bố về mức kali trong đất thực chất phụ thuộc vào đá mẹ, mức độ phong hoá, địa hình và chế độ canh tác.
  
Khi phân tích kali tổng số (K2O, %) trong đất người ta thường dùng các tổ hợp ít nhất hai axít mạnh (HNO3, HCl, H2SO4, HClO4) và gần như cho kết quả giống nhau. Gần đây, khi nghiên cứu các phương pháp phân tích kali thích hợp cho đất Việt Nam, các nhà phân tích cho rằng phải dùng các dịch chiết có axit mạnh và HF (HF, H2SO4, HClO4) mới có thể chiết hết K ra khỏi khoáng đất. Tuy vậy các lý luận thân thiện đối với môi trường đều không ủng hộ phương án này vì HF rất độc và không cần thiết phải đi đến tột cùng mới đánh giá được thực trạng kali trong đất. Số liệu phân tích năm 2003 trên 214 mẫu đất phù sa của Việt Nam cho thấy, hầu hết ĐPSSH có hàm lượng kali tổng số dao động từ 1,18-1,48%, hàm lượng kali trong ĐPSSH cao hơn đất phù sa hệ thống sông Cửu Long (1,11-1,28%) và cao hơn nhiều so với kali trong đất phù sa các sông khác (0,74-0,93%). Chính thành phần khoáng sét và thành phần cấp hạt đã làm giàu kali trong ĐPSSH và theo đó đã làm cho các sản phẩm cây trồng trên ĐPSSH có các chất lượng đặc biệt mà các vùng miền khác không có. Cũng cần cảnh báo rằng so với các kết quả phân tích trước đây, lượng kali tổng số trong ĐPSSH cũng đang có chiều hướng giảm đi.
+
Khi phân tích kali tổng số (K2O, %) trong đất người ta thường dùng các tổ hợp ít nhất hai axít mạnh (HNO3, HCl, H2SO4, HClO4) và gần như cho kết quả giống nhau. Gần đây, khi nghiên cứu các phương pháp phân tích kali thích hợp cho đất Việt Nam, các nhà phân tích cho rằng phải dùng các dịch chiết có axit mạnh và HF (HF, H2SO4, HClO4) mới có thể chiết hết K ra khỏi khoáng đất. Tuy vậy các lý luận thân thiện đối với môi trường đều không ủng hộ phương án này vì HF rất độc và không cần thiết phải đi đến tột cùng mới đánh giá được thực trạng kali trong đất. Số liệu phân tích năm 2003 trên 214 mẫu đất phù sa của Việt Nam cho thấy, hầu hết đất phù sa sông Hồng có hàm lượng kali tổng số dao động từ 1,18-1,48%, hàm lượng kali trong đất phù sa sông Hồng cao hơn đất phù sa hệ thống sông Cửu Long (1,11-1,28%) và cao hơn nhiều so với kali trong đất phù sa các sông khác (0,74-0,93%). Chính thành phần khoáng sét và thành phần cấp hạt đã làm giàu kali trong đất phù sa sông Hồng và theo đó đã làm cho các sản phẩm cây trồng trên đất phù sa sông Hồng có các chất lượng đặc biệt mà các vùng miền khác không có. Cũng cần cảnh báo rằng so với các kết quả phân tích trước đây, lượng kali tổng số trong đất phù sa sông Hồng cũng đang có chiều hướng giảm đi.
 
 
Bảng 2:  Kali tổng số (K2O, %) trong các loại đất phù sa các hệ thống sông
 
 
 
Thông số
 
 
 
thống kê Nhóm đất phù sa Đất phù sa 
 
 
 
sông Hồng Đất phù sa 
 
 
 
sông Cửu Long Đất phù sa các sông khác
 
 
 
Số mẫu 214 50 58 106
 
 
 
Trung bình ( ), %
 
 
 
1,055 1,336 1,202 0,843
 
 
 
Độ lệch chuẩn 0,506 0,524 0,324 0,490
 
 
 
Trung vị, % 1,109 1,394 1,235 0,752
 
 
 
<  , 95% < ; %
 
 
 
0,987 - 1,123 1,187 - 1,485  1,116 - 1,287 0,748 - 0,937 
 
  
 +
{| class="wikitable" style="margin-left: auto; margin-right: auto; border: none;"
 +
|+ Bảng 2:  Kali tổng số (K2O, %) trong các loại đất phù sa các hệ thống sông
 +
|-
 +
! Thông số thống kê !! Nhóm đất phù sa !! Đất phù sa Sông Hồng !! Đất phù sa sông Cửu Long !! Đất phù sa các sông khác
 +
|-
 +
| Số mẫu || 214 || 50 || 58 || 106
 +
|-
 +
| Trung bình (<math>\bar{\text{m}}</math>), % || 1,055 || 1,336 || 1,202 || 0,843
 +
|-
 +
| Độ lệch chuẩn || 0,506 || 0,524 || 0,324 || 0,490
 +
|-
 +
| Trung vị, % || 1,109 || 1,394 || 1,235 || 0,752
 +
|-
 +
| < <math>\bar{\text{m}}</math>, 95% < ; % || 0,987 - 1,123 || 1,187 - 1,485 || 1,116 - 1,287 || 0,748 - 0,937
 +
|}
  
Các tính chất hóa học khác của ĐPSSH
+
==Các tính chất hóa học khác của đất phù sa sông Hồng==
  
ĐPSSH có độ no bazơ cao (80-85%), canxi trao đổi 7,1-15,4 cmolc kg-1, magiê trao đổi 1,8-5,7 cmolc kg-1, đạm tổng số 0,12-0,26%, lân tổng số 0,08-0,13%; lân dễ tiêu phổ biến 12,0-15,0 mg/100 g đất, hàm lượng lưu huỳnh trong đất thấp.  
+
Đất phù sa sông Hồng có độ no bazơ cao (80-85%), canxi trao đổi 7,1-15,4 cmolc kg-1, magiê trao đổi 1,8-5,7 cmolc kg-1, đạm tổng số 0,12-0,26%, lân tổng số 0,08-0,13%; lân dễ tiêu phổ biến 12,0-15,0 mg/100 g đất, hàm lượng lưu huỳnh trong đất thấp.  
  
Sức sản xuất của đất phù sa sông Hồng  
+
==Sức sản xuất của đất phù sa sông Hồng==
  
Đất phù sa sông Hồng là loại đất có độ phì nhiêu tự nhiên rất cao và đồng nhất với độ phì nhiêu thực tế hay còn gọi là sức sản xuất của đất, thích hợp với hầu hết các loại cây trồng với hình thức thâm canh đa dạng. Trên ĐPSSH đã hình thành nên nền văn minh lúa nước lâu đời của vùng đồng bằng.  
+
Đất phù sa sông Hồng là loại đất có độ phì nhiêu tự nhiên rất cao và đồng nhất với độ phì nhiêu thực tế hay còn gọi là sức sản xuất của đất, thích hợp với hầu hết các loại cây trồng với hình thức thâm canh đa dạng. Trên đất phù sa sông Hồng đã hình thành nên nền văn minh lúa nước lâu đời của vùng đồng bằng.  
  
 
Hiện nay hệ thống cây trồng vùng đồng bằng sông Hồng (ĐBSH) cũng tương tự như vùng đồng bằng sông Cửu Long và các nước Đông Nam châu Á với khí hậu gió mùa gồm có lúa, hoa màu, cây ăn quả và cây công nghiệp ngắn ngày, nhưng cây lúa vẫn là cây trồng chủ yếu.
 
Hiện nay hệ thống cây trồng vùng đồng bằng sông Hồng (ĐBSH) cũng tương tự như vùng đồng bằng sông Cửu Long và các nước Đông Nam châu Á với khí hậu gió mùa gồm có lúa, hoa màu, cây ăn quả và cây công nghiệp ngắn ngày, nhưng cây lúa vẫn là cây trồng chủ yếu.
  
Căn cứ vào điều kiện tự nhiên, kinh tế-xã hội cũng như sự tiến triển của hệ thống cây trồng trong quá khứ, hiện trạng hệ thống cây trồng chính của vùng ĐBSH có các công thức luân canh phổ biến là : 1 vụ lúa/năm, 2 vụ lúa/năm, 2 vụ lúa + 1 vụ màu/năm, 1 vụ lúa + 1 vụ màu/năm, 1 vụ lúa + 2 vụ màu/năm và chuyên màu. Gần đây xuất hiện các công thức luân canh 4 vụ/năm.
+
Căn cứ vào điều kiện tự nhiên, kinh tế-xã hội cũng như sự tiến triển của hệ thống cây trồng trong quá khứ, hiện trạng hệ thống cây trồng chính của vùng đồng bằng sông Hồng có các công thức luân canh phổ biến là : 1 vụ lúa/năm, 2 vụ lúa/năm, 2 vụ lúa + 1 vụ màu/năm, 1 vụ lúa + 1 vụ màu/năm, 1 vụ lúa + 2 vụ màu/năm và chuyên màu. Gần đây xuất hiện các công thức luân canh 4 vụ/năm.
  
Tuy là vùng có nghề trồng lúa nước là chính, nhưng vùng ĐBSH có các tiểu vùng sinh thái khác nhau nên cơ cấu cây trồng, gắn vào đó cơ cấu giống và cơ cấu mùa vụ của mỗi tiểu vùng cũng khác nhau.  
+
Tuy là vùng có nghề trồng lúa nước là chính, nhưng vùng đồng bằng sông Hồng có các tiểu vùng sinh thái khác nhau nên cơ cấu cây trồng, gắn vào đó cơ cấu giống và cơ cấu mùa vụ của mỗi tiểu vùng cũng khác nhau.  
  
 
Hiện trạng hệ thống cây trồng vùng ĐBSH được mô tả theo các chân ruộng có đặc thù sinh thái khác nhau:
 
Hiện trạng hệ thống cây trồng vùng ĐBSH được mô tả theo các chân ruộng có đặc thù sinh thái khác nhau:
  
- Trên chân ruộng trũng;
+
* Trên chân ruộng trũng;
  
- Trên chân ruộng vàn và cao;
+
* Trên chân ruộng vàn và cao;
  
- Trên chân bãi ngoài đê;
+
* Trên chân bãi ngoài đê;
  
- Trên chân ruộng mặn, phèn ven sông nước mặn và ven biển.
+
* Trên chân ruộng mặn, phèn ven sông nước mặn và ven biển.
  
Hiện tại toàn bộ diện tích ĐPSSH đã được đưa vào sản xuất với sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật như các cuộc cách mạng về giống, phương thức canh tác, chế độ tưới, tiềm năng của ĐPSSH đang được khai thác triệt để. Trên những cánh đồng phù sa không phải chỉ có lúa mà còn có các cây trồng khác với những hình thức thâm canh và cơ cấu mùa vụ rất khác nhau. Đối với ĐPSSH trồng lúa thường có cơ cấu: 2 vụ lúa, 2 vụ lúa + 1 màu, 1 lúa + 2 màu hoặc 2 lúa –nhiều vụ màu. Năng suất lúa trung bình trên ĐPSSH đạt 6 tấn/vụ và nhiều nơi đạt trên 10 tấn/vụ (2018).
+
Hiện tại toàn bộ diện tích đất phù sa sông Hồng đã được đưa vào sản xuất với sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật như các cuộc cách mạng về giống, phương thức canh tác, chế độ tưới, tiềm năng của đất phù sa sông Hồng đang được khai thác triệt để. Trên những cánh đồng phù sa không phải chỉ có lúa mà còn có các cây trồng khác với những hình thức thâm canh và cơ cấu mùa vụ rất khác nhau. Đối với đất phù sa sông Hồng trồng lúa thường có cơ cấu: 2 vụ lúa, 2 vụ lúa + 1 màu, 1 lúa + 2 màu hoặc 2 lúa –nhiều vụ màu. Năng suất lúa trung bình trên đất phù sa sông Hồng đạt 6 tấn/vụ và nhiều nơi đạt trên 10 tấn/vụ (2018).
  
Trên ĐPSSH cũng đã tạo nên những vùng thâm canh cao: chuyên rau, chuyên hoa, chuyên cây ăn quả (vải, nhãn, chuối, bưởi, ổi, cam, quýt...), cho thu nhập từ vài trăm triệu đồng đến trên 1 tỷ đồng/ha/năm.
+
Trên đất phù sa sông Hồng cũng đã tạo nên những vùng thâm canh cao: chuyên rau, chuyên hoa, chuyên cây ăn quả (vải, nhãn, chuối, bưởi, ổi, cam, quýt...), cho thu nhập từ vài trăm triệu đồng đến trên 1 tỷ đồng/ha/năm.
  
Cây trồng trên ĐPSSH không chỉ có năng suất cao mà còn có chất lượng đặc biệt, các đặc sản phù sa sông Hồng như nếp cái hoa vàng, vải thiều Thanh Hà, bưởi Diễn, cam Canh, nhãn lồng Hưng Yên, chuối ngự Đại hoàng, húng Láng đã từ lâu đi vào sử sách và như là đặc sản riêng biệt của vùng châu thổ sông Hồng.
+
Cây trồng trên đất phù sa sông Hồng không chỉ có năng suất cao mà còn có chất lượng đặc biệt, các đặc sản phù sa sông Hồng như nếp cái hoa vàng, vải thiều Thanh Hà, bưởi Diễn, cam Canh, nhãn lồng Hưng Yên, chuối ngự Đại hoàng, húng Láng đã từ lâu đi vào sử sách và như là đặc sản riêng biệt của vùng châu thổ sông Hồng.
  
 
Hình thái phẫu diện điển hình đất phù sa sông Hồng  
 
Hình thái phẫu diện điển hình đất phù sa sông Hồng  

Bản hiện tại lúc 14:25, ngày 14 tháng 10 năm 2022

Sông Hồng, đoạn qua cầu Vĩnh Tuy, Hà Nội.

Đất phù sa sông Hồng là thuật ngữ ngắn gọn của của loại đất phù sa hệ thống sông Hồng theo phân loại đất Việt Nam. Đất phù sa sông Hồng thường có màu nâu tươi, nâu tím có tầng đất dày, được hình thành do sự bồi tụ phù sa và trầm tích của hệ thống sông Hồng. Hệ thống sông Hồng là một mạng lưới các con sông (sông Hồng, sông Đà, sông Chảy, sông Lô, sông Thái Bình, sông Luộc, sông Kinh Thày, sông Hóa và sông Cấm) góp nước hoặc nhận nước từ con sông chính là sông Hồng và đổ ra biển Đông ở các cửa Ba Lạt, Diêm Hộ, Trà Lý, Lân, So, Lạch Giang, Đáy, Lạch Càn thuộc các tỉnh/thành: Hải Phòng, Thái Bình, Nam Định và Ninh Bình. Tổng diện tích đất phù sa sông Hồng khoảng 764.200 ha (đo theo bản đồ đất Việt Nam 1/1.000.000), tập trung chủ yếu ở các tỉnh/thành: Vĩnh Phúc, Hà Nội, Hưng Yên, Hà Nam, Nam Định, Thái Bình. Đất phù sa sông Hồng được coi là đất “bờ xôi, ruộng mật” tốt nhất Việt Nam, vào loại tốt nhất thế giới xét về sức sản xuất của đất, là đất lý tưởng để trồng nhiều loại cây như: lúa, ngô, đậu đỗ, lạc, khoai, các loại rau và cây ăn quả.

Các loại đất phù sa sông Hồng[sửa]

Theo phân loại đất Việt Nam, nhóm đất phù sa được chia ra 3 loại đất phù sa theo hệ thống sông: loại đất phù sa hệ thống sông Hồng ký hiệu là Ph, loại đất phù sa hệ thống sông Cửu Long ký hiệu là Pl, loại đất phù sa hệ thống các sông khác ký hiệu là P.

Mỗi loại đất phù sa theo hệ thống sông được chia tiếp thành những loại phụ căn cứ vào địa hình, đặc điểm hình thái phẫu diện và tính chất hóa học, vật lý đất. Có thể chia loại đất phù sa sông Hồng thành 2 loại phụ chính.

  • Đất phù sa sông Hồng ngoài đê được bồi hằng năm.
  • Đất phù sa sông Hồng trong đê ít hoặc không được bồi.

Đất phù sa sông Hồng được bồi hay còn gọi là đất phù sa sông Hồng ngoài đê là loại đất bị ngập nước lũ sông Hồng hoặc được tưới đều đặn phù sa sông Hồng, khi nước rút được phủ lên một lớp phù sa mới ở mặt (2-10 cm). Đất phù sa sông Hồng được bồi đắp chủ yếu bởi phù sa các sông từ hằng ngàn năm nay. Nước sông Hồng mang theo phù sa trung bình 1.010 g/m3, ước tính tổng lượng phù sa hằng năm là 120 triệu tấn. Chất lượng phù sa sông Hồng thay đổi theo mùa và ngày càng thay đổi từ năm 2005 khi đập thủy điện Sơn La được xây dựng, đến nay có thêm thủy điện Sơn La và thủy điện Lai Châu.

Đất phù sa sông Hồng được bồi ngoài đê phổ biến có màu nâu tươi, nâu tím. Theo lát cắt (phẫu diện) từ trên xuống khoảng 50-60 cm, màu nâu bắt đầu nhạt dần, tới khoảng 90-100 cm bắt đầu xuất hiện các hạt cát to màu xám, xuống sâu nữa khoảng 150 cm xuất hiện các hạt cát có màu trắng. Theo phân loại đất FAO-UNESCO, đất phù sa sông Hồng điển hình trung tính là Eutric Fluvisol.

Đất phù sa sông Hồng trong đê. Đặc điểm cơ bản trong chinh phục vùng đất đồng bằng sông Hồng là sự hình thành hệ thống đê ngăn lũ bảo vệ dân cư và mùa màng. Hệ thống đê hai bên bờ sông Hồng và các nhánh ước tính dài trên 1700 km đã dẫn đến sự phân hóa chất lượng đất phù sa sông Hồng. Đất phù sa sông Hồng trong đê do ít được bồi đắp phù sa hằng năm, có nơi cao thường gọi là đất vàn cao tạo nên sự rửa trôi các cation kiềm thổ, tích lũy sắt nhôm nhiều, có các vệt đốm gỉ ở các tầng dưới của phẫu diện đất; ở vùng trũng, úng nước đất trở nên bị lầy, nhiều hữu cơ.

Nghiên cứu khoáng sét và vi hình thái cho thấy sự khác biệt rõ nét giữa đất phù sa sông Hồng được bồi ngoài đê và đất phù sa trong đê. Đối với đất phù sa sông Hồng được bồi, hai khoáng vật chính là hydromica và kaolinit; trong khi đó đất phù sa sông Hồng trong đê khoáng vật chính hydromica giảm đi và tăng khoáng vật kaolinit theo chiều sâu phẫu diện

Như vậy, đối với đất phù sa sông Hồng không được bồi, theo thời gian bản chất phù sa sông Hồng đặc trưng bị thay đổi, đất có thể chua, glây hay có tầng loang lổ, theo đó độ phì nhiêu tự nhiên của loại đất này cũng đang bị giảm đi. Mức độ thay đổi phụ thuộc vào địa hình, chế độ canh tác và mực nước ngầm. Theo cách lý giải này các nhà khoa học đất chia ra các nhóm phụ khác như đất phù sa sông Hồng glây, hoặc đất phù sa sông Hồng có tầng loang lổ.

Dung trọng, tỷ trọng và thành phần cơ giới đất phù sa sông Hồng

Các tính chất vật lý đất rất quan trọng trong việc xác định độ phì nhiêu thực tế của đất; Đất phù sa sông Hồng không chỉ có tác dụng trong trồng trọt mà còn rất tốt cho xây dựng, đặc biệt là trong việc xây dựng các khu thể thao cần có nền đất cỏ (như sân chơi gôn, sân bóng đá, sân quần vợt đất nện). Dung trọng, tỷ trọng và thành phần cơ giới là những tính chất cơ bản quan trọng nhất. Trong dân gian, nông dân thường phân biệt đất nặng, đất nhẹ, đất có tơi xốp thoáng khí, thoát nước tốt hay không chính là các chỉ thị nói về thành phần cơ giới của đất; đất phù sa có dung trọng trung bình là 0,84 g/cm3, dao động từ 0,75-0,92 g/cm3. Dung trọng của đất được dùng rộng rãi để xác định khối lượng lớp đất mặt trong sản xuất nông nghiệp, thường hay thay đổi do đặc điểm của chế độ canh tác. Tỷ trọng của đất được định nghĩa như là tỷ số giữa trọng lượng của một thể tích đất và trọng lượng nước có cùng một thể tích ở 40C, tỷ trọng trung bình của đất phù sa sông Hồng là 2,69 g/cm3, dao động từ 2,56-2,82 g/cm3. Độ xốp của đất 60-64% ở tầng mặt, 50-53% ở tầng dưới. Sức chứa ẩm tối đa đồng ruộng của đất bằng 30,2% ở đất có thành phần cơ giới nhẹ, 38,5% ở đất có thành phần cơ giới trung bình và 45,6% ở đất có thành phần cơ giới nặng. Độ ẩm cây héo của đất cũng có xu hướng tương tự, tăng theo mức độ nặng nhẹ của thành phần cơ giới, tương ứng là 4,4%, 11,05% và 24,0%.

Về thành phần cơ giới theo phân loại 3 cấp (thịt, limon, cát) thì đất phù sa sông Hồng có chủ yếu các cấp hạt limon, hàm lượng sét từ 21,4 – 31,4%, limon từ 54,2 – 57,2% còn lại là cát từ 14,4 – 21,4%. Tùy thuộc cự ly phân bố của đất so với sông và từ thượng lưu xuống hạ lưu mà thành phần cơ giới của đất phù sa sông Hồng có thể thay đổi từ cát pha đến thịt nhẹ, thịt, hay thịt nặng.

Bảng 1 trình bày thành phần cấp hạt của đất phù sa sông Hồng theo phân chia 4 cấp từ 2 mm đến nhỏ hơn 0,002 mm.

Bảng 1. Thành phần cơ giới đất phù sa sông Hồng theo phân loại 4 cấp
Thông số thống kê Thành phần cơ giới (%)
2 - 0,2 (mm) 0,2 - 0,02 (mm) 0,02 - 0,002 (mm) < 0,002 (mm)
Trung bình () 2,5 23,7 38,9 34,8
Độ lệch chuẩn 2,7 10,8 13,1 6,9
Trung vị 1,9 23,2 33,9 36,8
< , 95% < 0,1 - 5,0 13,7 - 33,7 26,8 - 51,1 28,4 - 41,2

Độ chua đất phù sa sông Hồng (pH)[sửa]

Độ chua hay pH của đất là chỉ số quan trọng đầu tiên cần xem xét khi đánh giá chất lượng đất. Xác định độ chua của đất thông qua máy đo pH. Những loại đất có độ phì nhiêu cao đều phải có một giới hạn pH nhất định không quá chua hoặc quá kiềm. Thường có hai dung môi sử dụng để xác định độ chua của đất là nước hoặc KCl, cho hai giá trị pHH2O hay pHKCl. Giá trị pHH2O là độ chua thực tại gây nên bởi các proton tự do có ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống cây trồng và hoạt động sinh khối trong đất. Giá trị pHKCl thể hiện độ chua trao đổi, là độ chua tiền năng, trong đó các ion có tính axit (H+, Al3+),…) trên bề mặt keo đất có thể được đẩy ra dung dịch đất làm cho đất chua; đất phù sa sông Hồng phổ biến có pHH2O dao động từ 5,33-5,76; pHKCl dao động từ 4,58-4,99. Như vậy so với các kết quả nghiên cứu trước đây giai đoạn 1960-1980, trung bình đất phù sa sông Hồng hiện nay đã chua hơn trước 0,5 đơn vị. Các nguyên nhân của sự chua hóa chủ yếu do sử dụng quá nhiều phân bón hóa học, sự rửa trôi theo chiều thẳng đứng ở các địa hình vàn cao.

Hàm lượng hữu cơ đất phù sa sông Hồng (OM, %)[sửa]

Rất nhiều người đồng ý rằng: đất (Soil) là " Tâm hồn của Cuộc sống Vô tận (Soul of the Infinite Life)", đất khác đá mẹ trước hết ở chỗ trong đất có chất hữu cơ. Những nghiên cứu thổ nhưỡng học trên thế giới và Việt Nam đều khẳng định: chất hữu cơ trong đất giữ vai trò to lớn trong việc duy trì và nâng cao độ phì nhiêu thực tế của đất, bao gồm điều tiết dinh dưỡng, chế độ nước, chế độ nhiệt... trong môi trường đất. Có thể nói trong đất chất hữu cơ tham gia hầu hết vào các sự kiện di đổi vật chất, bao gồm các quá trình vật lý, hoá học và sinh học đất. Thông thường đánh giá chỉ tiêu hữu cơ trong đất (OM, %) thông qua phân tích các bon hữu cơ (OC) theo phương pháp Walkley-Black. Trung bình, đất phù sa sông Hồng có các bon hữu cơ dao động từ 1,3-1,6%. Đất phù sa sông Hồng ngoài đê được bồi đắp phù sa thường xuyên nên lượng các bon hữu cơ thấp, có thể dưới 1%; Đất phù sa sông Hồng ở vùng trũng, thoát nước kém, hoạt động khoáng hóa kém, lượng các bon hữu cơ có thể cao hơn 2,2%.

Kali trong đất phù sa sông Hồng (K2O, %)[sửa]

Cùng với đạm và lân, kali (K) là nguyên tố dinh dưỡng đa lượng quan trọng trong đời sống cây trồng. Theo các nghiên cứu về khoáng học, trong đá K có khoảng 2,6%, còn trong đất K có khoảng 0,83%. Số liệu này chứng tỏ rằng kali bị rửa trôi trong quá trình phong hoá đá hình thành đất. Trong sự phát triển của ngành thổ nhưỡng học thế giới, những nghiên cứu về kali trong đất rất nhiều và K thường được dùng cho nghiên cứu mẫu nhiệt động học các phản ứng trao đổi trong đất từ những năm đầu của thế kỷ 20. Tuy vậy, ở Việt Nam các nghiên cứu về kali trong đất mới chỉ phát triển từ những năm sau 1970. Khoáng vật trong đất chứa kali hay được nói tới là các alumino-silicát như: kali phiến thạch, leuxit -KAl(SiO3)2, K-kính, saniđin, muscovit -KAl3Si3O10(OH)2, ilit... Trong đất, kali có mặt trong thành phần tất cả các cấp hạt nhưng chủ yếu là ở cấp hạt sét và hạt limon chưa phong hoá. Thường dùng chỉ tiêu kali tổng số để đánh giá tiềm năng kali của đất. Nguyễn Vy, Trần Khải (1978) lưu ý việc tính đến đồng thời cả thành phần cấp hạt và tính chất khoáng sét để dự báo hàm lượng kali trong đất. Sự phân bố về mức kali trong đất thực chất phụ thuộc vào đá mẹ, mức độ phong hoá, địa hình và chế độ canh tác.

Khi phân tích kali tổng số (K2O, %) trong đất người ta thường dùng các tổ hợp ít nhất hai axít mạnh (HNO3, HCl, H2SO4, HClO4) và gần như cho kết quả giống nhau. Gần đây, khi nghiên cứu các phương pháp phân tích kali thích hợp cho đất Việt Nam, các nhà phân tích cho rằng phải dùng các dịch chiết có axit mạnh và HF (HF, H2SO4, HClO4) mới có thể chiết hết K ra khỏi khoáng đất. Tuy vậy các lý luận thân thiện đối với môi trường đều không ủng hộ phương án này vì HF rất độc và không cần thiết phải đi đến tột cùng mới đánh giá được thực trạng kali trong đất. Số liệu phân tích năm 2003 trên 214 mẫu đất phù sa của Việt Nam cho thấy, hầu hết đất phù sa sông Hồng có hàm lượng kali tổng số dao động từ 1,18-1,48%, hàm lượng kali trong đất phù sa sông Hồng cao hơn đất phù sa hệ thống sông Cửu Long (1,11-1,28%) và cao hơn nhiều so với kali trong đất phù sa các sông khác (0,74-0,93%). Chính thành phần khoáng sét và thành phần cấp hạt đã làm giàu kali trong đất phù sa sông Hồng và theo đó đã làm cho các sản phẩm cây trồng trên đất phù sa sông Hồng có các chất lượng đặc biệt mà các vùng miền khác không có. Cũng cần cảnh báo rằng so với các kết quả phân tích trước đây, lượng kali tổng số trong đất phù sa sông Hồng cũng đang có chiều hướng giảm đi.

Bảng 2: Kali tổng số (K2O, %) trong các loại đất phù sa các hệ thống sông
Thông số thống kê Nhóm đất phù sa Đất phù sa Sông Hồng Đất phù sa sông Cửu Long Đất phù sa các sông khác
Số mẫu 214 50 58 106
Trung bình (), % 1,055 1,336 1,202 0,843
Độ lệch chuẩn 0,506 0,524 0,324 0,490
Trung vị, % 1,109 1,394 1,235 0,752
< , 95% < ; % 0,987 - 1,123 1,187 - 1,485 1,116 - 1,287 0,748 - 0,937

Các tính chất hóa học khác của đất phù sa sông Hồng[sửa]

Đất phù sa sông Hồng có độ no bazơ cao (80-85%), canxi trao đổi 7,1-15,4 cmolc kg-1, magiê trao đổi 1,8-5,7 cmolc kg-1, đạm tổng số 0,12-0,26%, lân tổng số 0,08-0,13%; lân dễ tiêu phổ biến 12,0-15,0 mg/100 g đất, hàm lượng lưu huỳnh trong đất thấp.

Sức sản xuất của đất phù sa sông Hồng[sửa]

Đất phù sa sông Hồng là loại đất có độ phì nhiêu tự nhiên rất cao và đồng nhất với độ phì nhiêu thực tế hay còn gọi là sức sản xuất của đất, thích hợp với hầu hết các loại cây trồng với hình thức thâm canh đa dạng. Trên đất phù sa sông Hồng đã hình thành nên nền văn minh lúa nước lâu đời của vùng đồng bằng.

Hiện nay hệ thống cây trồng vùng đồng bằng sông Hồng (ĐBSH) cũng tương tự như vùng đồng bằng sông Cửu Long và các nước Đông Nam châu Á với khí hậu gió mùa gồm có lúa, hoa màu, cây ăn quả và cây công nghiệp ngắn ngày, nhưng cây lúa vẫn là cây trồng chủ yếu.

Căn cứ vào điều kiện tự nhiên, kinh tế-xã hội cũng như sự tiến triển của hệ thống cây trồng trong quá khứ, hiện trạng hệ thống cây trồng chính của vùng đồng bằng sông Hồng có các công thức luân canh phổ biến là : 1 vụ lúa/năm, 2 vụ lúa/năm, 2 vụ lúa + 1 vụ màu/năm, 1 vụ lúa + 1 vụ màu/năm, 1 vụ lúa + 2 vụ màu/năm và chuyên màu. Gần đây xuất hiện các công thức luân canh 4 vụ/năm.

Tuy là vùng có nghề trồng lúa nước là chính, nhưng vùng đồng bằng sông Hồng có các tiểu vùng sinh thái khác nhau nên cơ cấu cây trồng, gắn vào đó cơ cấu giống và cơ cấu mùa vụ của mỗi tiểu vùng cũng khác nhau.

Hiện trạng hệ thống cây trồng vùng ĐBSH được mô tả theo các chân ruộng có đặc thù sinh thái khác nhau:

  • Trên chân ruộng trũng;
  • Trên chân ruộng vàn và cao;
  • Trên chân bãi ngoài đê;
  • Trên chân ruộng mặn, phèn ven sông nước mặn và ven biển.

Hiện tại toàn bộ diện tích đất phù sa sông Hồng đã được đưa vào sản xuất với sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật như các cuộc cách mạng về giống, phương thức canh tác, chế độ tưới, tiềm năng của đất phù sa sông Hồng đang được khai thác triệt để. Trên những cánh đồng phù sa không phải chỉ có lúa mà còn có các cây trồng khác với những hình thức thâm canh và cơ cấu mùa vụ rất khác nhau. Đối với đất phù sa sông Hồng trồng lúa thường có cơ cấu: 2 vụ lúa, 2 vụ lúa + 1 màu, 1 lúa + 2 màu hoặc 2 lúa –nhiều vụ màu. Năng suất lúa trung bình trên đất phù sa sông Hồng đạt 6 tấn/vụ và nhiều nơi đạt trên 10 tấn/vụ (2018).

Trên đất phù sa sông Hồng cũng đã tạo nên những vùng thâm canh cao: chuyên rau, chuyên hoa, chuyên cây ăn quả (vải, nhãn, chuối, bưởi, ổi, cam, quýt...), cho thu nhập từ vài trăm triệu đồng đến trên 1 tỷ đồng/ha/năm.

Cây trồng trên đất phù sa sông Hồng không chỉ có năng suất cao mà còn có chất lượng đặc biệt, các đặc sản phù sa sông Hồng như nếp cái hoa vàng, vải thiều Thanh Hà, bưởi Diễn, cam Canh, nhãn lồng Hưng Yên, chuối ngự Đại hoàng, húng Láng đã từ lâu đi vào sử sách và như là đặc sản riêng biệt của vùng châu thổ sông Hồng.

Hình thái phẫu diện điển hình đất phù sa sông Hồng

Thông tin: Phẫu diện N5. Xây dựng tiêu chuẩn chất lượng nền môi trường nhóm đất phù sa của Việt Nam, 2001-2003.

Tài liệu tham khảo[sửa]

  • Nguyễn Quang Hải, Hồ Quang Đức, Khoáng sét đất Việt Nam trong mối quan hệ với quá trình hình thành đất, Viện Thổ nhưỡng Nông hóa, Kết quả nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ, 50 năm xây dựng và phát triển, Nhà xuất bản Nông nghiệp. Hà Nội, tr. 58-68, 2019.
  • Nguyễn Vy, Trần Khải, Hóa học đất miền Bắc Việt Nam, Nhà xuất bản Khoa học Kỹ thuật, Hà Nội, 1978.
  • Phạm Quang Hà, Nghiên cứu xây dựng tiêu chuẩn chất lượng nền nhóm đất phù sa của Việt Nam, Viện Thổ nhưỡng Nông hóa, Hà Nội, 2003.