Mục từ này cần được bình duyệt
Khác biệt giữa các bản “Tĩnh Hải quân”
Dòng 32: Dòng 32:
 
Năm 954, Nam Sách vương mất. Năm 965, Nam Tấn vương cũng vong trận. Triều Ngô không người trực hệ kế nghiệp, tới đây [dường như] cáo chung.
 
Năm 954, Nam Sách vương mất. Năm 965, Nam Tấn vương cũng vong trận. Triều Ngô không người trực hệ kế nghiệp, tới đây [dường như] cáo chung.
  
Tuy nhiên, theo ''[[Khâm định Việt sử thông giám cương mục]]'' (thế kỉ XIX), Nam Sách vương có người đích tử [[Ngô Xương Xí]] thuộc đàng ngoại tiếm chủ [[Dương Thiệu Hồng]]. Ở thời điểm 965, tiếm chủ [[Dương Thiệu Hồng]] đã xuôi về mạn Tùng Khê (nay thuộc huyện [[Trực Ninh]] tỉnh [[Nam Định]]). Cũng năm đó, do nhận thấy vị thế đã kém, [[Ngô Xương Xí]] không xưng quốc chủ mà lui xuống mạn Bình Kiều (nay thuộc tỉnh [[Thanh Hóa]]) cố thủ, bỏ hoang kinh kì.
+
Tuy nhiên, theo ''[[Khâm định Việt sử thông giám cương mục]]'' (thế kỉ XIX), Nam Sách vương có người đích tử [[Ngô Xương Xí]] thuộc đàng ngoại tiếm chủ [[Dương Thiệu Hồng]]. Ở thời điểm 965, tiếm chủ [[Dương Thiệu Hồng]] đã xuôi về mạn Tùng Khê (nay thuộc huyện [[Trực Ninh]] tỉnh [[Nam Định]]). Cũng năm đó, do thấy vị thế đã kém, ông [[Ngô Xương Xí]] không xưng quốc chủ mà lui xuống mạn Bình Kiều (nay thuộc tỉnh [[Thanh Hóa]]) cố thủ, bỏ hoang kinh kì.
 
;;'''Đinh bộ lĩnh'''
 
;;'''Đinh bộ lĩnh'''
 
Trong 3 năm cuối cùng, sứ quân [[Đinh Tiên Hoàng|Đinh thị]] lần lượt thu phục các thế lực lớn nhất [[Hồng Hà bình nguyên|trung thổ]], căn bản thống nhất bờ cõi Tĩnh Hải quân. Tới năm 968, ông xưng ''Đại Thắng Minh hoàng đế'', đổi Tĩnh Hải quân thành ''Đại Cồ Việt quốc'', dựng kinh thành [[Tràng An]] ở bản quán [[Hoa Lư]], coi như kết thúc gần thế kỉ tương tàn.
 
Trong 3 năm cuối cùng, sứ quân [[Đinh Tiên Hoàng|Đinh thị]] lần lượt thu phục các thế lực lớn nhất [[Hồng Hà bình nguyên|trung thổ]], căn bản thống nhất bờ cõi Tĩnh Hải quân. Tới năm 968, ông xưng ''Đại Thắng Minh hoàng đế'', đổi Tĩnh Hải quân thành ''Đại Cồ Việt quốc'', dựng kinh thành [[Tràng An]] ở bản quán [[Hoa Lư]], coi như kết thúc gần thế kỉ tương tàn.

Phiên bản lúc 22:34, ngày 31 tháng 10 năm 2020

Tĩnh Hải quân (Hán văn : 靜海軍, Quảng thoại : Zing-hoi gwan) là khu vực hành chính Trung Hoa tương ứng mạn Nam Ngũ Lĩnh tới Hoành Sơn quan ngày nay, tồn tại giai đoạn 866 - 968.

Lịch sử

Niên hiệu Hàm Thông thứ 7 (866), hoàng đế Đường Ý Tông thuận thỉnh tấu của quan kinh lược Cao Biền mà nâng An Nam đô hộ phủ thành Tĩnh Hải quân. Nhờ công lao dẹp loạn Nam Chiếu, đại thần Cao Biền được trọng nhậm tiết độ sứ, tùy nghi hành sự tại đất Lĩnh Nam.

Tĩnh Hải quân ở giai đoạn đầu (866 - 931) tương đối ổn định nhờ sự hậu thuẫn của triều đình Trung Châu, giai đoạn sau (931 - 9658) càng lúc càng biến động do chính quyền trung ương không kiềm chế được các thế lực địa phương, mà bản thể hình thái chính quyền này cũng liên tục đổi ngôi và càng không đủ tính chính danh.

Tĩnh Hải quân (866 - 907)

Theo chuyên khảo của tiến sĩ Li Tana, sau loạn An Sử, Đường triều nhìn chung đã suy không kiểm soát được biên viễn. Do mức trù phú và ổn định suốt nhiều thế kỉ, vùng Lĩnh Nam trở thành mục tiêu của nhiều thế lực mới nổi xung quanh, mà cuộc xâm lăng tàn khốc của Đại Lễ quốc chỉ là tất yếu.

Trong thời kì 858 - 865, quân Nam Chiếu liên tục tràn xuống An Nam, đặc biệt hạ lưu Hồng hà, các quan trấn thủ và tướng lĩnh Đường triều cự không nổi phải triệt thoái. Mãi tới năm 866, triều đình trung ương mới cử một văn thần là Cao Biền đẩy lui được. Tuy nhiên, từ vị thế có mật độ dân số lớn nhất Trung Châu, Lĩnh Nam lúc này thưa người do bị bách hại hoặc bỏ chạy. Cũng từ vị thế độc tôn hải thương Trung Hoa, An Nam phải nhượng quyền cho lưu vực Quảng Châu. Tuy vậy, cho tới đầu thế kỉ XX, Tĩnh Hải quân tạm duy trì ổn định.

Khúc chủ (907 - 923)

Năm 907, nhân Hậu Lương Thái Tổ truất quyền tiết độ sứ Độc Cô Tổn, chưa kịp bổ nhậm quan viên mới, một hào trưởng Hồng châu là Khúc Hạo đem võ sĩ vào chiếm thủ phủ Đại La, xưng tiết độ sứ. Triều Lương vì ở quá xa, quyền bính còn bất ổn, nên tạm công nhận họ Khúc. Tuy nhiên, qua năm sau, Thái Tổ đế phong quan thị trung Lưu Ẩn chức Quảng châu tiết độ sứ kiêm Tĩnh Hải quân tiết độ sứ, tước Nam Bình vương. Họ Lưu viện cớ này để đòi họ Khúc trao quyền bính Lĩnh Nam.

Năm 911, tiết độ sứ Lưu Ẩn mất, em là Lưu Nghiễm kế nghiệp và bắt đầu dựng tự chủ. Khúc chủ bèn phong con hoặc em là Thừa Mĩ làm khuyến hảo sứ/hoan hảo sứ, sang Phiên Ngung thông hiếu và dò la binh tình. Năm 917, Lưu Yểm cải danh thành Lưu Trắc, xưng đế và li khai triều Lương. Cũng năm ấy, Khúc chủ Hạo mất, sứ thần Thừa Mĩ phải về chịu tang và kế vị. Họ Lưu đặt quốc danh Đại Việt, rồi Đại Hán, mà sử gọi Nam Hán, tiến hành thu phục Tĩnh Hải quân bằng võ lực. Khúc chủ Thừa Mĩ viện cớ họ Lưu tạo phản mà xin triều Lương công nhận, sai sứ sang Biện Lương cầu thân với ý định dựa thế lực lớn hơn giữ lộc vị.

Giao châu (923 - 938)

Năm 923, khi Hậu Lương triều đổ, Nam Hán đế dấy binh công kích, Khúc chủ thua và bị điệu về Phiên Ngung. Triều Nam Hán đổi Tĩnh Hải quân thành Giao châu thuộc Đại Hán quốc, lại cho quan viên Lý Tiến làm thứ sử, tướng Lý Khắc Chính làm trấn thủ Đại La thành. Tình thế Giao châu tạm yên thêm mấy năm.

Dương thị phục vị

Năm 931, nhân Khúc chủ Thừa Mĩ mất tại Phiên Ngung, một bộ tướng cũ người Ái châuDương Diên Nghệ (vốn được Nam Hán đế phong Ái châu thứ sử) đem dũng sĩ ra Đại La trục xuất Lý Tiến và Lý Khắc Chính, tự xưng Tĩnh Hải quân tiết độ sứ và bất phục triều Nam Hán.

Kiểu thị đoạt vị

Năm 937, nha tướng Kiểu Công Tiễn tạo phản, hạ sát tiết độ sứ họ Dương và chiếm quyền. Năm 938, một người rể Dương Diên NghệNgô Quyền lại đem quân vào Đại La diệt Kiểu tiếm chủ, cũng xưng tiết độ sứ, kết thúc nội biến.

Ngô vương (938 - 965/8)

Thừa cơ Giao châu biến động, Nam Hán đế sai hoàng trưởng tử Lưu Hoằng Tháo đem binh thuyền sang phục quyền. Tuy nhiên, quân Nam Hán thất trận Bạch Đằng, chủ soái Lưu Hoằng Tháo cũng vong mạng, Nam Hán phải bỏ hẳn Lĩnh Nam.

Tiền Ngô vương

Năm 939, tiết độ sứ Ngô Quyền xưng vương. Do Trung Châu bấy giờ đều rối ren, Ngô vương Quyền thực tế là nhà cai trị tối cao tại Tĩnh Hải quân. Ông cho định đô tại Cổ Loa thành.

Dương Bình vương

Năm 944, Ngô vương Quyền mất. Thê đệ Dương Thiệu Hồng tiếm vị, đích tử Ngô Xương Ngập phải chạy trốn, tuy nhiên họ Dương đem người kế tử Ngô Xương Văn về nuôi. Nhân cơ hội này, sứ quân quật khởi khắp nơi và không thần phục triều đình trung ương. Sử gọi Thập nhị sứ quân chi loạn.

Hậu Ngô vương / Thập nhị sứ quân

Theo chuyên khảo của tiến sĩ Trần Trọng Dương, cả nhân vật Ngô Quyền cho tới các sứ quân đều từng là giả tử của thứ sử Ái châu Dương Diên Nghệ hoặc ít nhiều liên đới từ lâu. Vì thế, cuộc nội biến do người con Dương Diên Nghệ là nguyên cớ để sứ quân bất phục. Cũng theo tiến sĩ Trần Trọng Dương, trái quan niệm trong học giới thế kỉ XX, thực tế Đinh bộ lĩnh hầu như là sứ quân quật khởi ban đầu. Các sứ quân vừa tranh đấu vừa đổi con tin để thủ thế, có những sứ quân chỉ thuần biện pháp cầu thân chứ không dụng võ lực.

Năm 950, vương tử Ngô Xương Văn truất tiếm chủ Dương Thiệu Hồng, giáng làm Chương Dương sứ. Bản thân xưng Nam Tấn vương, đón bào huynh Ngô Xương Ngập về phong Nam Sách vương, tước thái thượng vương, cùng trị quốc. Nhiều tài liệu hậu hiện đại thường gọi thời hai vua.

Năm 954, Nam Sách vương mất. Năm 965, Nam Tấn vương cũng vong trận. Triều Ngô không người trực hệ kế nghiệp, tới đây [dường như] cáo chung.

Tuy nhiên, theo Khâm định Việt sử thông giám cương mục (thế kỉ XIX), Nam Sách vương có người đích tử Ngô Xương Xí thuộc đàng ngoại tiếm chủ Dương Thiệu Hồng. Ở thời điểm 965, tiếm chủ Dương Thiệu Hồng đã xuôi về mạn Tùng Khê (nay thuộc huyện Trực Ninh tỉnh Nam Định). Cũng năm đó, do thấy vị thế đã kém, ông Ngô Xương Xí không xưng quốc chủ mà lui xuống mạn Bình Kiều (nay thuộc tỉnh Thanh Hóa) cố thủ, bỏ hoang kinh kì.

Đinh bộ lĩnh

Trong 3 năm cuối cùng, sứ quân Đinh thị lần lượt thu phục các thế lực lớn nhất trung thổ, căn bản thống nhất bờ cõi Tĩnh Hải quân. Tới năm 968, ông xưng Đại Thắng Minh hoàng đế, đổi Tĩnh Hải quân thành Đại Cồ Việt quốc, dựng kinh thành Tràng An ở bản quán Hoa Lư, coi như kết thúc gần thế kỉ tương tàn.

Thực tế, từ thời điểm này, khu vực Lĩnh Nam không chịu sự kiểm soát trực tiếp của các triều đình Trung Châu nữa, căn bản tiến tới tự chủ hoàn toàn ở thế kỉ XI.

Tham khảo

Liên kết