Mục từ này đã đạt chất lượng ở mức sản phẩm bước đầu của Đề án Biên soạn Bách khoa toàn thư Việt Nam giai đoạn 1
Chuyển giới

Chuyển giới là trạng thái một người nhận thức bản thân thuộc về một giới tính khác với giới tính của cơ thể khi sinh ra. Người có trạng thái nhận thức như vậy được gọi là người chuyển giới (còn gọi là người hoán tính). Họ luôn cảm thấy khó chịu với giới (về mặt sinh học) của mình, chỉ muốn mình là thành viên thuộc về giới mong muốn.

Vấn đề chuyển giới đã được đề cập trong tài liệu từ những năm 1920. Trải qua các thời kỳ khác nhau và ở các nền văn hóa khác nhau, chuyển giới cũng được ứng xử khác nhau. Trong ICD-10 (Bảng Phân loại bệnh Quốc tế lần thứ 10 - 1992), người chuyển giới dễ dàng bị chẩn đoán là Loạn dục CG (F64.0). Trong DSM-IV và ngay cả DSM-5, trong lĩnh vực tâm lý trị liệu cũng là một trong các tiêu chuẩn để chẩn đoán rối loạn xác định giới (DSM-IV) hoặc loạn cảm do giới (DSM-5). Ở Việt Nam hiện nay, sự kỳ thị đối với người chuyển giới giảm đi rất nhiều.

Diễn biến chuyển giới: Hầu hết những người chuyển giới, ngay từ nhỏ đã có những hành vi không tương thích với giới như những người khác. Họ cho rằng mình bị sinh nhầm giới tính. Các cậu bé có thể là không chơi với bạn trai mà lại thích chơi với đám con gái hơn. Chúng thường mặc quần áo, dùng đồ dùng của con gái và muốn lớn lên thành con gái. Các cô bé thì thích mặc quần áo, kiểu tóc con trai, không chịu đái ngồi, không muốn vú to ra và có kinh nguyệt. Khi lớn lên, nhiều người chuyển giới có nguyện vọng được sự can thiệp về mặt y khoa như can thiệp phẫu thuật, liệu pháp hormon hoặc cả hai để được sống và thể hiện vai trò của giới như mong muốn. Tuy nhiên quy trình can thiệp bằng phẫu thuật và hoormon là khá phức tạp và tốn kém nên không phải ai cũng có thể thực hiện được.

Nguyên nhân: Cả hai nhóm yếu tố là môi trường và sinh học đều được tìm kiếm nhằm giải thích hiện tượng chuyển giới. Trong nhóm yếu tố sinh học, các yếu tố về gen và não và hormon là được quan tâm nhiều nhất. Một số nghiên cứu về não ở những người chuyển giới cũng phát hiện thấy một số khác biệt về cấu trúc não của nhóm người này so với nhóm đối chứng. Tuy nhiên, những bằng chứng sinh học vẫn còn quá mỏng manh và chưa đủ để giải thích.

Những giải thích tâm lý: Cũng đã có những giải thích tâm lý học đối với những người đã được chẩn đoán là rối loạn xác định giới (theo DSM-IV). Giải thích phân tâm dựa vào lo âu bị cách li, huyễn tưởng thuở nhỏ, lo sợ bị thiến… tâm lý học Hành vi đề cập đến điều kiện hóa sớm. Mặc dù vậy, những giải thích này cũng chưa thuyết phục.

Ngoài việc hỗ trợ, tham vấn tâm lý cho những người quyết định làm can thiệp để chuyển sang giới mình mong muốn, các nhà tâm lý cũng quan tâm đến cuộc sống sau can thiệp của họ. Một kết quả nghiên cứu theo dõi đánh giá qua nhiều năm cho thấy: khoảng 87% số nam chuyển sang nữ là thấy hài lòng, trong khi đó tỷ lệ này ở nhóm nữ chuyển sang nam là 97%. Chỉ có 1% là tỏ ra hối hận về quyết định can thiệp chuyển giới.

Tài liệu tham khảo[sửa]

  1. Tổ chức Y tế Thế giới, Phân loại bệnh Quốc tế lần thứ 10 (PLBQT-10F) về các rối loạn tâm thần và hành vi, Geneva (Bản dịch của Trần Di Ái và CS), 1992, tr. 202.
  2. Craighead W.E., Nemeroff C.B., The Concise CorsiniEncyclopedia of Psychology and Behavioral Sciences, 3rd Ed., John Wiley & Sons, Inc., 2004, pp. 1.000 - 1.001.
  3. Matsumoto D., (General Editor), The Cambridge Dictionary of Psychology, Cambridge University, 2009, pp. 551.
  4. American Psychiatric Association, Diagnostic and Statistical Manual of Mental Disorders, 5th Ed., Washington D.C., 2013, pp. 534.
  5. Comer R.J., Abnormal Psychology, 9th Ed., Worth Publishers, 2015,pp. 457.