Chi Quốc phòng là tổng hợp các khoản chi của một quốc gia nhằm tăng cường khả năng phòng thủ của đất nước, bảo vệ chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ quốc gia.
Hàng năm để duy trì sức mạnh quân sự và thực hiện chiến lược quân sự của mình, các nước trên thế giới đều phải dành ra từ 1 - 4% tổng sản phẩm trong nước (GNP) cho quốc phòng. Một số nước Chi Quốc phòng lớn như: Mỹ, Nga, Hàn Quốc, Ấn Độ, Trung Quốc, Nhật Bản 6%. Các nước ASEAN duy trì mức chi cho quốc phòng trung bình khoảng 2,1% tổng sản phẩm trong nước, một số nước có mức Chi Quốc phòng lớn như: Xingapo, Inđônêxia, Thái Lan 4%.
Ở Việt Nam Chi Quốc phòng phù hợp với tốc độ phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, đáp ứng yêu cầu tăng cường tiềm lực quốc phòng bảo vệ Tổ quốc, nhưng không chạy đua vũ trang.
Chi Quốc phòng bao gồm: chi cho quốc phòng theo nhiệm vụ của Bộ Quốc phòng và Chi Quốc phòng tại các cơ quan Trung ương và các địa phương. Chi Quốc phòng chủ yếu được lấy từ ngân sách Nhà nước, gồm ngân sách Trung ương và ngân sách địa phương. Ngoài ra, sự đóng góp của các tổ chức, cá nhân cho quốc phòng cũng có ý nghĩa quan trọng đối với sự nghiệp quốc phòng ở các địa phương. Nội dung chi của mỗi cấp ngân sách được xác định theo nhiệm vụ quốc phòng của cấp chính quyền do pháp luật quy định; mức chi được Quốc hội quyết định khi thông qua ngân sách Nhà nước hàng năm. Ở cấp Trung ương, luật pháp quy định rõ nội dung, nhiệm vụ Chi Quốc phòng của Bộ Quốc phòng và của các bộ, cơ quan khác ở Trung ương. Nội dung chi của Bộ Quốc phòng gồm: chi thường xuyên nhằm bảo đảm đời sống vật chất, tinh thần và chính sách cho bộ đội, bảo đảm thực hiện các nhiệm vụ xây dựng lực lượng, cơ sở vật chất trang bị, đào tạo, huấn luyện sẵn sàng chiến đấu và các nhiệm vụ khác thuộc nhiệm vụ Chi Quốc phòng của Bộ Quốc phòng theo quy định của chính phủ; chi đầu tư xây dựng cơ bản từ nguồn vốn đầu tư tập trung của ngân sách Nhà nước; chi các nhiệm vụ khác được Nhà nước giao. Nội dung Chi Quốc phòng của các cơ quan Trung ương gồm: chi cho công tác giáo dục quốc phòng toàn dân; chi tổ chức huy động lực lượng dự bị động viên; chi tổ chức huấn luyện dân quân tự vệ; chi cho sĩ quan dự bị; chi động viên nền kinh tế cho quốc phòng; chi tổ chức phối hợp diễn tập và chi cho công tác quốc phòng khác thuộc nhiệm vụ của các cơ quan Trung ương theo quy định của Chính phủ.
Đối với ngân sách địa phương, nội dung Chi Quốc phòng được xác định dựa trên nhiệm vụ quốc phòng của địa phương, bao gồm: chi tổ chức hội nghị, tập huấn nghiệp vụ, báo cáo công tác quốc phòng của địa phương; chi thực hiện kế hoạch xây dựng tỉnh thành khu vực phòng thủ vững chắc; chi tổ chức, huy động lực lượng dự bị động viên, tổ chức thực hiện luật nghĩa vụ quân sự...; chi thực hiện chính sách đối với sĩ quan dự bị, lực lượng vũ trang nhân dân địa phương và chính sách hậu phương quân đội; chi thực hiện nhiệm vụ bảo vệ các mục tiêu chính trị, kinh tế, xã hội và các công trình quốc phòng, khu quân sự theo phân cấp, quản lý bảo vệ biên giới theo nhiệm vụ dược phân công; chi bảo đảm các nhiệm vụ khác thuộc nhiệm vụ Chi Quốc phòng của ngân sách địa phương theo quy định của pháp luật. Việc phân định nội dung Chi Quốc phòng cho mỗi cấp ngân sách tạo cơ sở pháp lý cho lập dự toán ngân sách. Bộ Quốc phòng, các cơ quan Trung ương, cơ quan quân sự và các cơ quan ở địa phương căn cứ nội dung chi, căn cứ nhiệm vụ quốc phòng cụ thể được giao, số dự kiến giao ngân sách Nhà nước của cấp có thẩm quyền và một số căn cứ khác tiến hành lập dự toán ngân sách Chi Quốc phòng của cấp mình. Luật pháp của Nhà nước cũng quy định về chấp hành ngân sách, quyết toán ngân sách trong lĩnh vực quốc phòng nhằm bảo đảm các khoản Chi Quốc phòng được quản lý chặt chẽ, tiết kiệm, hiệu quả.
Chi Quốc phòng có tính chất phức tạp, nội dung chi phong phú, đa dạng do nhiều cấp, nhiều ngành thực hiện, chi phí cho quốc phòng là chi cho hoạt động thuộc lĩnh vực dịch vụ đặc biệt; chi phí có thể dự kiến tính toán được cho từng nhiệm vụ cụ thể nhưng dung sai lớn; chi phí có khoản chi có thể lượng hóa chính xác và xác định được đơn vị tính, có khoản chi không thể lượng hóa được chính xác; kết quả của hoạt động quốc phòng thường khó hoặc không tính toán, đánh giá, lượng hóa được giá trị. Đặc điểm nêu trên chính là khó khăn cho việc phân tích, đánh giá tính hiệu quả của Chi Quốc phòng. Để bảo đảm Chi Quốc phòng hiệu quả cần nghiên cứu xác định các chỉ tiêu, tiêu chí, tiêu chuẩn để đánh giá mức độ kết quả hoạt động quốc phòng, so sánh với chi phí quốc phòng để thấy hiệu quả chi cao hay thấp, phân tích nguyên nhân và tìm biện pháp nâng cao hiệu quả Chi Quốc phòng. Mối quan hệ giữa kết quả hoạt động quốc phòng và Chi Quốc phòng được coi là có hiệu quả trong các trường hợp cơ bản: chi phí ở mức nhất định nhưng kết quả đạt cao nhất; kết quả nhiệm vụ đạt mức nhất định với chi phí thấp nhất; Chi Quốc phòng tăng nhưng kết quả thực hiện nhiệm vụ quốc phòng tăng ở mức cao hơn; Chi Quốc phòng giảm, kết quả thực hiện nhiệm vụ cũng giảm nhưng mức giảm ít hơn. Các quốc gia, dù tiềm lực kinh tế ở mức nào đều rất quan tâm tới Chi Quốc phòng và hiệu quả Chi Quốc phòng.
Tài liệu tham khảo[sửa]
- Tổng cục Chính trị, Giáo trình Kinh tế quân sự Mác – Lê Nin, Nxb Quân đội Nhân dân, Hà Nội, 2003
- Học viện Hậu cần, Giáo trình Tài chính dự toán Quân đội, Nxb Quân đội Nhân dân, Hà Nội, 2010
- Bộ Quốc phòng, Quốc phòng Việt Nam 2019, Nxb Chính trị quốc gia sự thật, Hà Nội, 2019
- Bộ Quốc Phòng, Học Viện Hậu cần và Trung tâm thông tin KHQS, Hậu cần quân đội nước ngoài, Nxb Quân đội Nhân dân, Hà Nội, 2020.