Mục từ này đã đạt chất lượng ở mức sản phẩm bước đầu của Đề án Biên soạn Bách khoa toàn thư Việt Nam giai đoạn 1
Tràn dịch màng phổi

Tràn dịch màng phổi xảy ra khi có quá nhiều chất lỏng tích tụ trong khoang màng phổi (khoảng trống giữa hai lớp màng phổi) hoặc có thể gọi là ‘‘Nước vào phổi’’.

Mô tả[sửa]

Có hai màng phổi, một (màng phổi tạng) lót phổi, và màng kia (màng phổi thành) bao phủ bên trong thành ngực. Thông thường, các mạch máu nhỏ trong màng phổi sản xuất một lượng nhỏ chất lỏng bôi trơn các màng phổi đối diện để chúng có thể lướt nhẹ nhàng vào nhau trong quá trình thở. Bất kỳ chất lỏng nào thừa sẽ được máu và mạch bạch huyết hấp thụ, duy trì sự cân bằng. Khi có quá nhiều chất lỏng hoặc thứ gì đó ngăn cản việc loại bỏ chất lỏng đó, kết quả là sẽ gây ra tình trạng dư thừa chất lỏng màng phổi – hay tràn dịch. Các nguyên nhân phổ biến nhất là bệnh tim hoặc phổi và viêm hoặc nhiễm trùng màng phổi.

Một hình chụp X-quang mô tả hiện tượng tràn dịch màng phổi ở người

Bản thân bệnh tràn dịch màng phổi không phải là một bệnh lý mà là hậu quả của nhiều bệnh lý khác nhau. Vì lý do này, không có bệnh nhân ‘‘điển hình’’ về tuổi tác, giới tính hoặc các đặc điểm khác. Thay vào đó, bất kỳ ai có một trong những điều kiện trên đều có thể bị tràn dịch màng phổi.

Tràn dịch màng phổi có hai dạng: tràn dịch tiết màng phổi và tràn dịch thấm màng phổi.

Dịch thấm[sửa]

Dịch thấm là một chất lỏng trong suốt, tương tự như huyết thanh, hình thành không phải do bản thân bề mặt màng phổi bị bệnh, mà là do quá trình thẩm thấu dịch và hấp thu dịch trong khoang màng phổi ở bị mất cân bằng.

Dịch tiết[sửa]

Dịch tiết - thường là dịch đục, chứa các tế bào và nhiều protein - là kết quả của bệnh của chính màng phổi. Nguyên nhân rất nhiều và đa dạng.

Tràn dịch màng phổi đặc biệt[sửa]

Một số tình trạng rối loạn ở màng phổi tạo ra dịch tiết cũng gây chảy máu vào khoang màng phổi. Tràn dịch mà trong dịch có chứa một nửa hoặc nhiều hơn số lượng tế bào hồng cầu được gọi là hemothorax. Trường hợp tràn dịch màng phổi có màu trắng đục và chứa một lượng lớn chất béo được gọi là chylothorax. Dịch bạch huyết thoát ra từ các mô khắp cơ thể đi vào các mạch bạch huyết nhỏ cuối cùng đổ về trong một ống dẫn lớn (vòi bạch huyết) chạy qua ngực, đổ vào tĩnh mạch chính. Khi bạch huyết rò rỉ ra khỏi ống dẫn vào khoang màng phổi, kết quả là chylothorax. Ung thư ở ngực là một nguyên nhân phổ biến gây nên chylothorax

Nguyên nhân và triệu chứng[sửa]

Nguyên nhân của tràn dịch thấm màng phổi[sửa]

Trong số các nguyên nhân cụ thể quan trọng nhất của tràn dịch thấm màng phổi là:

  • Suy tim sung huyết. Điều này gây ra tràn dịch màng phổi ở khoảng 40% bệnh nhân và thường xuất hiện ở cả hai bên ngực. Suy tim là nguyên nhân phổ biến nhất của tràn dịch hai bên (hai bên). Khi chỉ có một bên bị ảnh hưởng thì thường là bên phải (vì bệnh nhân thường nằm nghiêng về bên phải).
  • Viêm màng ngoài tim. Đây là tình trạng viêm màng ngoài tim- màng bao bọc tim.
  • Quá nhiều dịch trong các mô cơ thể, tràn vào khoang màng phổi. Điều này được thấy trong một số dạng bệnh thận; khi bệnh nhân bị bệnh đường ruột và hấp thụ quá ít những gì ăn được; và khi truyền quá nhiều dịch qua đường tĩnh mạch.
  • Bệnh gan. Khoảng 5% bệnh nhân bị bệnh gan mãn tính có tổn thương gọi là xơ gan hình thành tràn dịch màng phổi.

Nguyên nhân của tràn dịch tiết màng phổi[sửa]

Một loạt các tình trạng có thể là nguyên nhân gây ra tràn dịch tiết màng phổi bao gồm:

  • U màng phổi chiếm tới 40% các trường hợp tràn dịch màng phổi một bên. Chúng có thể phát sinh trong chính màng phổi (u trung biểu mô), hoặc từ các vị trí khác, đặc biệt là phổi.
  • Bệnh lao phổi có thể tạo ra tràn dịch màng phổi có xuất tiết kéo dài.
  • Viêm phổi ảnh hưởng đến khoảng ba triệu người mỗi năm và cứ 10 bệnh nhân thì có bốn người bị tràn dịch màng phổi. Nếu không được điều trị hiệu quả, tình trạng tràn dịch lan rộng có thể hình thành, rất khó điều trị.
  • Những bệnh nhân bị bất kỳ loại nhiễm trùng nào do vi rút, nấm hoặc ký sinh trùng liên quan đến phổi có thể bị tràn dịch màng phổi.
  • Có đến một nửa số bệnh nhân hình thành cục máu đông trong phổi (tắc mạch phổi) sẽ bị tràn dịch màng phổi, và đây đôi khi là dấu hiệu duy nhất của thuyên tắc mạch.
  • Các bệnh tự miễn, bao gồm viêm khớp dạng thấp, lupus và hội chứng Sjogren’s có thể là nguyên nhân gây tràn dịch màng phổi.
  • Bệnh nhân bị bệnh gan hoặc tuyến tụy có thể bị tràn dịch tiết và điều này cũng xảy ra đối với bất kỳ bệnh nhân nào trải qua đại phẫu vùng bụng. Khoảng 30% bệnh nhân phẫu thuật tim cũng sẽ bị tràn dịch màng phổi.
  • Tổn thương lồng ngực có thể gây tràn dịch màng phổi dưới dạng tràn máu màng phổi hoặc chylothorax.

Triệu chứng[sửa]

Triệu chứng chính của tràn dịch màng phổi là khó thở. Dịch tràn vào khoang màng phổi khiến phổi khó nở ra hết, khiến bệnh nhân phải thở nhanh để có đủ oxy. Khi đỉnh màng phổi bị kích thích, bệnh nhân có thể bị đau nhẹ theo từng cơn hoặc đôi khi là cơn đau buốt, như dao đâm vào màng phổi. Một số bệnh nhân sẽ bị ho khan. Đôi khi bệnh nhân sẽ không có triệu chứng. Điều này hay xảy ra khi tràn dịch do vừa mới phẫu thuật bụng, bị ung thư hoặc bệnh lao. Gõ vào ngực sẽ thấy âm đục và khi nghe bằng ống nghe sẽ nghe thấy rì rào phế nang giảm. Nếu màng phổi bị viêm, có thể có tiếng cọ màng phổi.

Chẩn đoán[sửa]

Khi nghi ngờ có tràn dịch màng phổi, cách tốt nhất để xác nhận là chụp X-quang phổi, phổi thẳng và phổi nghiêm. Có thể được nhìn thấy dịch màng phổi ở đáy phổi, ẩn cấu trúc phổi bình thường. Nếu bị suy tim, bóng X-quang của tim sẽ to ra. Siêu âm có thể phát hiện tràn dịch nhỏ mà không có phát hiện bất thường khi khám ngực. Chụp cắt lớp vi tính rất hữu ích nếu phổi có biểu hiện bất thường.

Để tìm hiểu nguyên nhân gây ra tràn dịch, người ta thường dùng kim hoặc ống catheter để lấy một lượng dịch màng phổi, được kiểm tra tế bào và thành phần hóa học. Thủ thuật này, được gọi là chọc dò màng phổi, là cách để xác định xem tràn dịch là dịch thấm hay dịch tiết, đưa ra manh mối về nguyên nhân cơ bản. Trong một số trường hợp ví dụ như khi bị ung thư hoặc nhiễm trùng do vi khuẩn có thể xác định được nguyên nhân cụ thể và lên kế hoạch điều trị chính xác. Nuôi cấy mẫu dịch có thể xác định vi khuẩn gây bệnh lao hoặc các dạng nhiễm trùng màng phổi khác. Bước chẩn đoán tiếp theo là lấy một mẫu mô hoặc sinh thiết màng phổi và kiểm tra dưới kính hiển vi. Nếu tràn dịch do bệnh phổi, việc đặt một ống soi (ống soi phế quản) qua các đường dẫn khí lớn sẽ cho phép người khám có thể nhìn thấy biểu hiện bất thường của phổi.

Điều trị[sửa]

Cách tốt nhất để điều trị tràn dịch màng phổi là điều trị trực tiếp nguyên nhân gây ra, thay vì điều trị tràn dịch. Nếu tình trạng suy tim được hồi phục hoặc nhiễm trùng phổi được chữa khỏi bằng thuốc kháng sinh, tình trạng tràn dịch thường sẽ hết. Tuy nhiên, nếu không xác định được nguyên nhân, ngay cả khi đã xét nghiệm rộng rãi, hoặc không có biện pháp điều trị hiệu quả, dịch có thể được dẫn lưu bằng cách đặt một kim hoặc catheter có lỗ lớn vào khoang màng phổi, giống như trong chọc lồng ngực chẩn đoán. Nếu cần, thủ thuật này có thể được tiến hành lặp lại thường xuyên để kiểm soát lượng dịch trong khoang màng phổi. Nếu tình trạng tràn dịch lớn tiếp tục tái phát, một loại thuốc hoặc một loại dược liệu gây kích ứng màng phổi có thể được tiêm vào để cố tình làm viêm nhiễm và khiến chúng dính chặt vào nhau - một quá trình gọi là xơ cứng. Điều này sẽ ngăn ngừa tràn dịch thêm bằng cách loại bỏ khoang màng phổi.

Trong những trường hợp nghiêm trọng nhất, phẫu thuật mở với việc cắt bỏ một xương sườn có thể cần thiết để dẫn lưu mở khoang màng phổi để thoát hết dịch.

Tiên lượng[sửa]

Khi nguyên nhân của tràn dịch màng phổi có thể được xác định và điều trị hiệu quả, thì tình trạng tràn dịch sẽ tự khỏi và không tái phát. Trong nhiều trường hợp khác, triệu chứng xơ cứng sẽ ngăn không cho các đợt tràn dịch lớn tái phát. Bất cứ khi nào tràn dịch nhiều làm bệnh nhân khó thở, thì phương pháp chọc dò dịch màng phổi sẽ giúp thở dễ dàng hơn và có thể lặp lại nếu cần thiết. Ở một mức độ lớn, tiên lượng cho bệnh nhân tràn dịch màng phổi phụ thuộc vào nguyên nhân chính của tràn dịch và liệu nó có thể được loại bỏ. Một số dạng tràn dịch màng phổi, chẳng hạn như sau phẫu thuật bụng, chỉ là tạm thời và sẽ khỏi mà không cần điều trị cụ thể. Nếu tình trạng suy tim có thể được kiểm soát, bệnh nhân sẽ không bị tràn dịch màng phổi. Mặt khác, nếu tràn dịch do ung thư mà không thể kiểm soát được, thì các tác động khác của bệnh có thể sẽ trở nên quan trọng hơn.

Dự phòng[sửa]

Vì tràn dịch màng phổi là ảnh hưởng thứ phát của nhiều bệnh lý khác nhau nên mấu chốt của việc phòng tránh là chẩn đoán kịp thời bệnh chính và đưa ra phương pháp điều trị hiệu quả. Điều trị kịp thời các bệnh nhiễm trùng như bệnh lao và viêm phổi sẽ ngăn ngừa được nhiều đợt tràn dịch. Khi tràn dịch xảy ra do tác dụng phụ của thuốc, việc dừng thuốc hoặc sử dụng một loại thuốc khác có thể giải quyết được vấn đề. Trong một số trường hợp hiếm hoi, tràn dịch xảy ra do thuốc dành cho tĩnh mạch bị tiêm nhầm vào khoang màng phổi. Điều này có thể được ngăn chặn bằng cách đảm bảo rằng kỹ thuật thích hợp.

Tài liệu tham khảo[sửa]

  1. American Lung Association, 1301 Pennsylvania Ave. NW, Suite 800, Washington, DC, 20001, (202) 758-3355, Fax: (202) 452-1805, (800) 548-8252, info@ lungusa.org, http://www.lungusa.org.
  2. National Heart Lung and Blood Institute Health Information Center, PO Box 30105, Bethesda, MD, 20824-0105, (301) 592-8573, Fax: (240) 629-3246, http://www. nhlbi.nih.gov.
  3. Bộ y tế. Hướng dẫn chẩn đoán và điều trị bệnh hô hấp, Hà Nội, 2012.