Mục từ này đã đạt chất lượng ở mức sản phẩm bước đầu của Đề án Biên soạn Bách khoa toàn thư Việt Nam giai đoạn 1
Toàn cầu hoá

Toàn cầu hoá (tiếng Anh Globalization) là khái niệm dùng để miêu tả các thay đổi trong xã hội và trong nền kinh tế thế giới, tạo ra bởi mối liên kết và trao đổi ngày càng tăng giữa các quốc gia, các tổ chức hay các cá nhân ở góc độ văn hóa, kinh tế... trên quy mô toàn cầu. Đặc biệt trong phạm vi kinh tế, toàn cầu hoá hầu như được dùng để chỉ các tác động của thương mại nói chung và tự do hóa thương mại nói riêng. Cũng ở góc độ kinh tế, người ta chỉ thấy các dòng chảy tư bản ở quy mô toàn cầu kéo theo các dòng chảy thương mại, kỹ thuật, công nghệ, thông tin, văn hóa.

Toàn cầu hoá là một quy luật khách quan luôn tồn tại trong lịch sử do quá trình giao lưu văn hóa, kinh tế là tất yếu. Tuy nhiên từ những năm 1990, với sự ra đời của Internet quá trình toàn cầu hoá trở nên mạnh mẽ. Giữa toàn cầu hoá và sự phát triển của công nghệ thông tin có liên quan chặt chẽ. Các dòng chảy tài chính, thông tin, tri thức, văn hóa ngày nay đều dựa trên mạng xã hội, Internet và truyền thông số.

Toàn cầu hoá là một hiện tượng kinh tế, xã hội, văn hóa, chính trị và pháp lí.

  • Về mặt kinh tế: cho phép các tập đoàn tận dụng lợi thế so sánh, giảm chi phí nhân công, chi phí nguyên liệu, có thêm nhiều khách hàng
  • Về mặt xã hội: dẫn đến sự tương tác lớn hơn giữa dân cư ở các vùng khác nhau
  • Về mặt văn hóa: đại diện cho sự trao đổi ý tưởng, giá trị và biểu hiện nghệ thuật giữa các nền văn hóa và cũng đại diện cho một xu hướng phát triển văn hóa thế giới duy nhất.
  • Về mặt chính trị: tạo sự chú ý cho các tổ chức liên chính phủ như Liên Hợp Quốc và Tổ chức Thương mại Thế giới
  • Về mặt pháp lí: thay đổi cách thức luật pháp quốc tế được tạo ra và thực thi

Chỉ số toàn cầu hoá được công bố lần đầu vào năm 2000 dựa trên đánh giá 5 nhóm thành tố. Chỉ số toàn cầu hoá 2007 dùng dữ liệu của năm 2004 và dựa trên bốn nhóm chỉ tiêu gồm: hội nhập kinh tế (ngoại thương & đầu tư trực tiếp từ nước ngoài), kết nối cá nhân (chuyển giao thu nhập từ hoạt động viễn thông quốc tế, du lịch, kiều hối), kết nối công nghệ (lượng người dùng dịch vụ mạng internet, số máy chủ phục vụ mạng, các giải pháp bảo đảm an ninh máy chủ mạng), cam kết chính trị (tham gia các tổ chức quốc tế, tham gia hoạt động gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc, tham gia các thỏa ước quốc tế, chuyển giao tín dụng giữa các nhà nước).

Các lĩnh vực chịu tác động của toàn cầu hoá[sửa]

Tự do hoá dùng để chỉ việc nới lỏng đối với những chính sách đã từng được siết chặt trước đó của chính phủ, thường là trong lĩnh vực xã hội và kinh tế. Trong phạm vi các chính sách xã hội, nó thường chỉ việc nới lỏng các luật hạn chế liên quan đến ly dị, phá thai, tình dục đồng giới hay ma tuý. Thông thường, thuật ngữ này dùng để chỉ các chính sách tự do hoá kinh tế, đặc biệt là tự do hoá thương mại hay tự do hoá thị trường vốn, và gọi chung là chính sách tân tự do.

Toàn cầu hoá kinh tế là sự phụ thuộc lẫn nhau về kinh tế ngày càng tăng của các nền kinh tế quốc gia trên toàn thế giới thông qua sự gia tăng nhanh chóng của sự di chuyển xuyên biên giới của hàng hóa, dịch vụ, công nghệ và vốn. Trong khi toàn cầu hoá kinh doanh tập trung vào việc giảm bớt các quy định thương mại quốc tế cũng như thuế quan, thuế và các trở ngại khác ngăn cản thương mại toàn cầu, thì toàn cầu hoá kinh tế là quá trình gia tăng hội nhập kinh tế giữa các quốc gia, dẫn đến sự xuất hiện của một thị trường toàn cầu hoặc một thị trường thế giới duy nhất. toàn cầu hoá kinh tế bao gồm toàn cầu hoá sản xuất và toàn cầu hoá thị trường. toàn cầu hoá sản xuất đề cập đến việc thu thập hàng hóa và dịch vụ từ một nguồn cụ thể từ các địa điểm trên toàn cầu để hưởng lợi từ sự khác biệt về chi phí và chất lượng. toàn cầu hoá thị trường được định nghĩa là sự kết hợp của các thị trường khác nhau và riêng biệt thành một thị trường toàn cầu rộng lớn. toàn cầu hoá kinh tế cũng bao gồm cạnh tranh, công nghệ, và các tập đoàn và ngành công nghiệp.

Toàn cầu hoá văn hóa đề cập đến việc truyền tải các ý tưởng, ý nghĩa và giá trị trên toàn thế giới theo cách để mở rộng và tăng cường các mối quan hệ xã hội. Quá trình này được đánh dấu bởi sự tiêu thụ chung của các nền văn hóa đã được lan truyền bởi Internet, văn hóa đại chúng phương tiện truyền thông và du lịch quốc tế. toàn cầu hoá văn hóa liên quan đến việc hình thành các chuẩn mực và kiến thức được chia sẻ mà mọi người liên kết bản sắc văn hóa cá nhân và tập thể của họ. Nó mang lại sự kết nối ngày càng tăng giữa các nhóm dân cư và nền văn hóa khác nhau.

Toàn cầu hoá chính trị đề cập đến sự lớn mạnh của hệ thống chính trị trên toàn thế giới, cả về quy mô và mức độ phức tạp. Hệ thống đó bao gồm các chính phủ quốc gia, các tổ chức chính phủ và liên chính phủ của họ cũng như các thành phần độc lập với chính phủ của xã hội dân sự toàn cầu như các tổ chức phi chính phủ quốc tế và các tổ chức phong trào xã hội. Một trong những khía cạnh chính của toàn cầu hoá chính trị là tầm quan trọng của quốc gia-nhà nước ngày càng giảm và sự trỗi dậy của các tác nhân khác trên chính trường.

Toàn cầu hoá trong lịch sử nhân loại[sửa]

Lịch sử đã chứng kiến bốn lần có hiện tượng “toàn cầu hóa”:

1. Lần thứ nhất vào cuối thế kỷ XV đến đầu thế kỷ XIX, sau khi Christopher Columbus tìm ra châu Mỹ, châu Âu “khai hóa thế giới”, theo đó tư bản được tích lũy lớn để nước Anh trở thành bá chủ toàn cầu.

2. Lần thứ hai vào nửa cuối thế kỷ XIX đến năm 1914, khi người châu Âu chinh phục châu Á, còn Nhật Bản nắm cơ hội tiến hành cuộc “Duy tân” hưng thịnh đất nước.

3. Lần thứ ba kể từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai đến năm 1970.

4. Lần thứ tư từ thập niên 80 đến nay, còn gọi là “toàn cầu hoá hiện đại”, được thúc đẩy bởi sự bùng nổ của công nghệ thông tin và bao trùm hầu hết các lĩnh vực của loài người, với cốt lõi là toàn cầu hoá về kinh tế. toàn cầu hoá về kinh tế được tăng cường sâu rộng, cả lượng và chất bởi ba động lực: công nghệ thông tin, không gian địa lý và tiền vốn lưu chuyển xuyên quốc gia và còn được thể chế hóa nhiều hơn.

Thương mại điện tử đang trở thành công cụ để hỗ trợ các doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp nhỏ vay vốn dễ dàng hội nhập với nền kinh tế thế giới và bắt kịp xu hướng phát triển toàn cầu. Chỉ có tiếp cận trực tiếp với thị trường thì các doanh nghiệp mới nắm được hơi thở của thị trường và kịp thời đáp ứng nhu cầu của thị trường để đưa ra định hướng cho các hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Khi dự báo về xu hướng phát triển của toàn cầu hoá trong thời gian một số thập kỷ của thế kỷ XXI, có thể nêu ra một số nhân tố thúc đẩy, khuyến khích và một số nhân tố hạn chế, kìm hãm toàn cầu hoá.

Các nhân tố tác động tới toàn cầu hoá[sửa]

Các nhân tố thúc đẩy, khuyến khích toàn cầu hoá[sửa]

  • Cuộc cách mạng khoa học công nghệ, đặc biệt là cách mạng trong công nghệ thông tin sẽ tiếp tục phát triển mạnh, thúc đẩy quá trình lưu chuyển vốn, tài nguyên, nhân lực, thông tin, công nghệ trên phạm vi toàn cầu.
  • Tính quốc tế hóa của các hoạt động sản xuất - kinh doanh ngày càng được phát triển cả về chiều rộng và chiều sâu, với vai trò ngày càng quan trọng các công ty đa quốc gia, công ty xuyên quốc gia đối với sự tiếp tục phát triển của toàn cầu hoá.
  • Sự ra đời và phát triển của kinh tế tri thức ở các nước công nghiệp phát triển và các nước công nghiệp mới góp phần quan trọng thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế nói chung trên toàn thế giới và tăng cường tính toàn cầu của thị trường cũng như tính linh hoạt rộng khắp của quá trình sản xuất, kinh doanh. Kinh tế tri thức phát triển dựa trên sự phân bổ và sử dụng tri thức, mà trước hết là ý tưởng, sáng kiến, thông tin và các công nghệ cao

Các nhân tố hạn chế quá trình toàn cầu hoá[sửa]

  • Mâu thuẫn và xung đột lợi ích diễn ra ngày càng gay gắt giữa các nước và nhóm nước trên thế giới và các nhóm xã hội trong từng nước trong quá trình toàn cầu hoá.
  • Khủng hoảng kinh tế ở các nước lớn hay các trung tâm kinh tế và khu vực quan trọng trên thế giới có tác động ảnh hưởng tiêu cực tới tiến trình phát triển toàn cầu hoá, không chỉ làm giảm khối lượng các dòng lưu chuyển hàng hóa, dịch vụ, yếu tố đầu vào của quá trình sản xuất mà còn có dấu hiệu cho sự quay lại của chủ nghĩa bảo hộ mậu dịch.
  • Bất ổn về chính trị, xung đột về tôn giáo, văn hóa, sắc tộc, nhân quyền và chủ nghĩa khủng bố tiếp tục gia tăng ở nhiều nước và khu vực trên thế giới, gây cản trở không nhỏ đối với quá trình thực hiện tự do hóa thương mại trên phạm vi toàn cầu và khu vực.

Tại Việt Nam[sửa]

Đối với Việt Nam, toàn cầu hoá tạo điều kiện cho sự hợp tác, tham gia các liên minh Kinh tế, chiếm lĩnh thị trường, tiếp thu thành tựu khoa học, công nghệ tiên tiến, tận dụng nguồn vốn, học tập kinh nghiệm quản lí.... Tuy nhiên, toàn cầu hoá cũng đặt ra cho Việt Nam những thách thức to lớn, như nguy cơ tụt hậu về kinh tế, nạn thất nghiệp và thiếu việc làm, sự phân hoá giàu nghèo, tệ nạn xã hội và tội phạm có xu hướng tăng, sự lo ngại về mất bản sắc, sự đồng hoá văn hoá và sự huỷ hoại văn hoá dân tộc, v.v. Con đường để vượt qua những thách thức đó không phải là đóng cửa lại để sống biệt lập với thế giới. Trái lại, phải chủ động và tích cực hội nhập quốc tế, bồi dưỡng và giáo dục con người nhằm nâng cao ý thức, trách nhiệm công dân, trách nhiệm với Tổ quốc, khơi dậy và phát huy tinh thần dân tộc ở họ.

Toàn cầu hoá là xu hướng phát triển kinh tế - xã hội mang tính tất yếu, có ảnh hưởng tác động ngày càng mạnh mẽ tới hầu hết các lĩnh vực của con người trên bình diện thế giới. Tuy nhiên, do thời gian tiến hành công nghiệp hóa, các điều kiện nguồn lực phát triển kinh tế – xã hội, thực trạng phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia không giống nhau. Do vậy, thực tế sự tham gia, mức độ được hưởng lợi hoặc chịu tác động tiêu cực từ quá trình toàn cầu hoá cũng khác nhau giữa các quốc gia.

Tài liệu tham khảo[sửa]

  1. Albrow, Martin; King, Elizabeth (1990). Globalization, Knowledge and Society. London: Sage. ISBN 0-8039-8323-9. OCLC 22593547.
  2. Stever, H. Guyford (1972). "Science, Systems, and Society". Journal of Cybernetics. 2 (3): 1–3. doi:10.1080/01969727208542909.
  3. Frank, Andre Gunder. (1998). ReOrient: Global economy in the Asian age. Berkeley: University of California Press. ISBN 978-0-520-21474-3