Mục từ này đã đạt chất lượng ở mức sản phẩm bước đầu của Đề án Biên soạn Bách khoa toàn thư Việt Nam giai đoạn 1
Hiệp sĩ phong kiến

Hiệp sĩ phong kiến danh hiệu cao quý trong hệ thống quý tộc ở châu Âu thời trung đại. Tiếng Anh gọi là knights, tiếng Pháp là chevalier, và tiếng Đức là ritter.

Thời sơ kỳ trung đại ở châu Âu, chức hiệp sĩ được phong cho các chiến binh cưỡi ngựa (mounted warriors). Sang thời trung kỳ trung đại, chức hiệp sĩ được xem là tầng lớp thấp nhất trong đẳng cấp phong kiến thế tục. Vào cuối thời trung đại, cấp bậc này gắn liền với lý tưởng của tinh thần hiệp sĩ, một quy tắc ứng xử dành cho chiến binh Thiên Chúa giáo.

Hiệp sĩ phong kiến bắt nguồn dưới triều đại Hoàng đế Charlemagne (768-814). Những chiến binh cưỡi ngựa đã giúp cho Charlemagne chinh phục được những vùng rất rộng lớn và để bảo đảm sự phục vụ của họ, nhà vua đã ân thưởng cho họ một khoảnh đất được gọi là benefices (đất phong - thái ấp). Đến thời của Charles the Bald, thái ấp được cha truyền con nối. Trong hai thế kỉ IX và X, cùng với sự sụp đổ của chính quyền trung ương Carolingian, sự tấn công của người Viking, Magyar và Saracen, và sự nổi lên của các vương quốc Frank phía Tây và phía Đông, tầng lớp chiến binh mới được phân phong này bắt đầu đào hào đắp lũy và xây dựng các công trình phòng thủ. Chính tầng lớp những chiến binh cưỡi ngựa được phong đất là nguồn gốc hình thành nên các hiệp sĩ ở châu Âu.

Các hiệp sĩ có xu hướng là bồi thần của quý tộc. Để đổi lấy đất đai, họ sẽ thề trung thành với quý tộc và đồng ý chiến đấu vì họ và bảo vệ họ. Ngựa, áo giáp hạng nặng và vũ khí đều đắt tiền, điều đó có nghĩa là những chiến binh ưu tú thường xuất thân từ tầng lớp quý tộc hoặc được họ tài trợ. Có hai loại binh lính ở châu Âu thời phong kiến: binh lính dân thường (thường là những người nông dân bị buộc phải phục vụ) và hiệp sĩ - những chiến binh tinh nhuệ.

Các Hiệp sĩ phong kiến được huấn luyện một cách chuyên nghiệp về nghệ thuật chiến đấu với áo giáp, ngựa, giáo, kiếm và lá chắn.Việc đào tạo hiệp sĩ rất nghiêm ngặt trong một thời gian dài. Các bé trai thường được chọn làm hiệp sĩ khi còn nhỏ. Có ba mốc quan trọng trong hành trình huấn luyện để trở thành một hiệp sĩ. Năm bảy tuổi, đứa trẻ được đưa vào nhà của một lãnh chúa với tư cách là người hầu (page). Ở đó, đứa trẻ được dạy cách săn bắn, đọc, viết, và học cách chiến đấu. Khi bước sang tuổi mười bốn, anh ta có thể trở thành một cận vệ (squire), thực hiện nhiệm vụ trong gia đình lãnh chúa. Trong giai đoạn này, hiệp sĩ sẽ học cách phục vụ và nắm vững những điều phức tạp của hành vi xã hội và tinh thần hiệp sĩ. Họ cũng được trang bị kiếm, áo giáp để cùng với kỵ sĩ tham gia các giải đấu, trận chiến và thực hành các kỹ năng của mình. Khi bước sang tuổi hai mươi mốt, một cận vệ đã sẵn sàng được phong tước hiệp sĩ. Anh ta phải tắm rửa sạch sẽ để gột rửa sự ô uế của cơ thể và linh hồn. Sau đó, anh ta trải qua một ngày đêm để cầu nguyện. Cuối cùng anh ta quỳ xuống trước lãnh chúa - người phong anh ta thành hiệp sĩ bằng cách đặt vào vai anh ta một thanh kiếm. Sau đó, hiệp sĩ sẽ mặc áo giáp, nhận kiếm, cưỡi ngựa và tham gia một số trò chơi võ thuật để thể hiện kỹ năng của mình.

Chức hiệp sĩ có thể đạt được theo một trong hai cách: thông thường, một cận vệ sẽ được phong tước hiệp sĩ như một nghi thức thông hành vào cuối khóa huấn luyện; tuy nhiên, anh ta cũng có thể được phong tước hiệp sĩ sau một hành động dũng cảm cụ thể.

Các hiệp sĩ phải sống theo một quy tắc hành vi được gọi là tinh thần hiệp sĩ (Code of chilvalry), yêu cầu họ phải tôn trọng người lớn tuổi, giúp đỡ kẻ yếu, người nghèo khổ, trung thành với lãnh chúa của mình, chiến đấu bằng danh dự, đối xử công bằng với tất cả, cư xử lịch sự với phụ nữ và kính Chúa.

Trong thời bình, các hiệp sĩ thường huấn luyện chiến đấu và thể hiện kỹ năng võ thuật của họ trong các giải đấu. Trong thời kỳ chiến tranh, các hiệp sĩ được lãnh chúa hoặc nhà vua kêu gọi vũ trang, dẫn dắt bộ binh và cung thủ vào trận chiến.

Một số hiệp sĩ thuộc về các nhóm, hoặc Dòng tu. Mỗi đơn vị phục vụ một mục đích khác nhau. Hiệp sĩ Hospitallers (thành lập năm 1099) để chăm sóc những người hành hương bị bệnh; Hiệp sĩ Templar (thành lập năm 1119), hiệp sĩ Teuton (thành lập năm 1192) có nhiệm vụ bảo vệ những người hành hương đến Thánh địa Jerusalem trong các cuộc Thập tự chinh; hay Order of the Garter là một nhóm hiệp sĩ ưu tú bao gồm hoàng gia của Vương quốc Anh thành lập năm 1348 .

Các khía cạnh quân sự của chế độ hiệp sĩ mờ dần khi việc sử dụng súng và thuốc súng ngày càng nhiều. Ngày nay, phong tước hiệp sĩ có hai loại: là một vinh dự được hoàng gia ban tặng cho người được lựa chọn vì một số thành tích đáng khen ngợi (như Order of the Garter của nước Anh, Royal Order of the Seraphim của Thụy điển, và the Royal Norwegian Order of St. Olav của Na uy), và một cấp bậc trong một trong những môn võ thuật của châu Âu.

Tài liệu tham khảo[sửa]

  1. Đặng Đức An (Chủ biên), Lại Bích Ngọc, Đại cương Lịch sử thế giới Trung đại, Tập 1, Phương Tây, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2009.
  2. Brinton Crane, Christopher John B, Wolff Robert Lee, Civilization in the West (Văn minh phương Tây), Prentice-Hall, Inc, Englewood Cliffs, New Jersy, USA, 1964.
  3. Angelica V.Ariston, Estela E.Banashihan, Monina Olavides-Correa Virgilio C.Galvez, Olivia M.Habana, Joseph Jay V.Hernando, World History for Filipino student (Giáo trình Lịch sử thế giới dành cho sinh viên Philippines), English edition of Lupang Hangarin, Anvil Publishing, Inc, 2011.
  4. Kay Slocum (Vĩnh Khoa dịch), Văn minh Trung Cổ, Nxb. Từ điển Bách khoa, Hà Nội, 2012.
  5. How Knights work? (Hiệp sĩ hoạt động như thế nào?)https://history.howstuffworks.com/historical-figures/knight1.htm, truy cập ngày 4 tháng 12 năm 2020.
  6. A History and Mythos of the Knights Templar (Lịch sử và thần thoại của Hiệp sĩ Đền Thánh) http://www.templarhistory.com/.
  7. Feudalism and Knights (Chế độ phong kiến và Hiệp sĩ), http://www.middle-ages.org.uk/feudalism-and-knights.htm.
  8. Hiệp sĩ và tinh thần mã thượng https://nghiencuulichsu.com/2012/09/25/hiep-sy-va-tinh-than-ma-thuong/?fbclid=IwAR3nbQOgIp40bTcn5faawfoXyQjfB-Y7-zQuxwpiogI_TfA8uasBOZSmf28, truy cập ngày 4 tháng 12 năm 2020.