Mục từ này cần được bình duyệt
Khác biệt giữa các bản “Chiến tranh Lạnh”
Dòng 112: Dòng 112:
  
 
Đến năm 1947, Tổng thống Hoa Kỳ [[Harry S. Truman]] đã giận dữ vì Liên Xô chống đối những yêu cầu của Hoa Kỳ ở Iran, Thổ Nhĩ Kỳ, Hy Lạp cùng [[Kế hoạch Baruch]] về vũ khí hạt nhân.{{sfn|Milestones: 1945–1952}} Tháng 2 năm 1947, chính phủ Anh thông báo không còn có thể hỗ trợ tài chính cho [[Vương quốc Hy Lạp]] trong [[Nội chiến Hy Lạp|cuộc nội chiến của nước này]] chống khởi nghĩa do Cộng sản cầm đầu.{{sfn|Iatrides|1996|pp=373–76}} Chính phủ Hoa Kỳ phản ứng trước thông báo này bằng việc thông qua [[chính sách ngăn chặn]]{{sfn|Gaddis|2005|pp=28–29}} với mục tiêu chặn đứng sự bành trướng của [[chủ nghĩa cộng sản]]. Truman phát biểu kêu gọi phân phát khoản tiền 400 triệu đô-la nhằm can thiệp vào cuộc chiến và vén màn [[Học thuyết Truman]] nhìn nhận đây là cuộc đấu giữa những người tự do và những chế độ toàn trị.{{sfn|Gaddis|2005|pp=28–29}} Các nhà hoạch định chính sách Hoa Kỳ cáo buộc Liên Xô âm mưu chống lại phe bảo hoàng Hy Lạp nhằm mở rộng tầm ảnh hưởng ngay cả khi Stalin đã bảo Đảng Cộng sản hợp tác với chính phủ do Anh hậu thuẫn.{{sfn|Gerolymatos|2017|pp=195–204}}
 
Đến năm 1947, Tổng thống Hoa Kỳ [[Harry S. Truman]] đã giận dữ vì Liên Xô chống đối những yêu cầu của Hoa Kỳ ở Iran, Thổ Nhĩ Kỳ, Hy Lạp cùng [[Kế hoạch Baruch]] về vũ khí hạt nhân.{{sfn|Milestones: 1945–1952}} Tháng 2 năm 1947, chính phủ Anh thông báo không còn có thể hỗ trợ tài chính cho [[Vương quốc Hy Lạp]] trong [[Nội chiến Hy Lạp|cuộc nội chiến của nước này]] chống khởi nghĩa do Cộng sản cầm đầu.{{sfn|Iatrides|1996|pp=373–76}} Chính phủ Hoa Kỳ phản ứng trước thông báo này bằng việc thông qua [[chính sách ngăn chặn]]{{sfn|Gaddis|2005|pp=28–29}} với mục tiêu chặn đứng sự bành trướng của [[chủ nghĩa cộng sản]]. Truman phát biểu kêu gọi phân phát khoản tiền 400 triệu đô-la nhằm can thiệp vào cuộc chiến và vén màn [[Học thuyết Truman]] nhìn nhận đây là cuộc đấu giữa những người tự do và những chế độ toàn trị.{{sfn|Gaddis|2005|pp=28–29}} Các nhà hoạch định chính sách Hoa Kỳ cáo buộc Liên Xô âm mưu chống lại phe bảo hoàng Hy Lạp nhằm mở rộng tầm ảnh hưởng ngay cả khi Stalin đã bảo Đảng Cộng sản hợp tác với chính phủ do Anh hậu thuẫn.{{sfn|Gerolymatos|2017|pp=195–204}}
 +
 +
Học thuyết Truman được đề ra đã đánh dấu sự đồng lòng bước đầu giữa những người [[Đảng Dân chủ (Hoa Kỳ)|dân chủ]] và [[Đảng Cộng hòa (Hoa Kỳ)|cộng hòa]] Hoa Kỳ về chính sách quốc phòng và đối ngoại tập trung vào ngăn chặn và răn đe, điều này hạ mức trong và sau [[Chiến tranh Việt Nam]] nhưng lặp lại tiếp đó.{{sfn|Paterson|1989|pp=35, 142, 212}} Các đảng bảo thủ và ôn hòa ở châu Âu cùng những người dân chủ xã hội ủng hộ gần như vô điều kiện liên minh phương Tây,{{sfn|Moschonas|2002|p=21}} trong khi [[chủ nghĩa cộng sản châu Âu|những người cộng sản châu Âu]] và [[Đảng Cộng sản Hoa Kỳ|châu Mỹ]] được [[KGB]] tài trợ và tham gia vào các hoạt động tình báo của KGB{{sfn|Andrew|Mitrokhin|2000|p=276}} thì gắn bó với đường lối của Moskva (nhưng bất đồng bắt đầu xuất hiện sau năm 1956). Sự phê bình chính sách của Hoa Kỳ đến từ các nhà hoạt động chống chiến tranh Việt Nam, tổ chức [[Vận động Giải trừ Hạt nhân]] (CND) và [[phong trào chống hạt nhân]].{{sfn|Crocker|Hampson|Aall|2007|p=55}}
  
 
== Tham khảo ==
 
== Tham khảo ==
 
{{reflist|20em}}
 
{{reflist|20em}}

Phiên bản lúc 16:36, ngày 2 tháng 8 năm 2021

Chiến tranh Lạnh
1947–1991
Một phần của kỷ nguyên hậu Thế chiến II
NATO vs. Warsaw (1949-1990).png

Cold War alliances mid-1975.svg

Trên:   NATO  Khối Warszawa trong Chiến tranh Lạnh
Dưới: "Thế giới thứ Ba" thời Chiến tranh Lạnh, tháng 4 – tháng 8 năm 1975

  Thế giới thứ Nhất: Khối Tây do Hoa Kỳ, Nhật Bản và đồng minh cầm đầu
  Thế giới thứ Hai: Khối Đông do Liên Xô, Trung Quốc và đồng minh cầm đầu

IvyMike2.jpg
Đám mây hình nấm của vụ thử hạt nhân Ivy Mike, 1952; một trong hơn một ngàn vụ thử tương tự mà Hoa Kỳ tiến hành giai đoạn 1945–1992
KoreanWarRefugeeWithBaby.jpg
Thiếu nữ Triều Tiên cõng người em trai trên lưng mệt mỏi lê bước gần xe tăng M46 Patton, Haengju, Hàn Quốc, 1951
Berlin Wall 1961-11-20.jpg
Công nhân Đông Đức xây dựng bức tường Berlin, 1961
P-2H Neptune over Soviet ship Oct 1962.jpg
Máy bay của Hải quân Mỹ theo dõi tàu hàng Liên Xô trong Khủng hoảng Tên lửa Cuba, 1962
ASTP handshake - cropped.jpg
Phi hành gia Hoa Kỳ Thomas P. Stafford (phải) bắt tay phi hành gia Liên Xô Alexei Leonov (trái) ngoài không gian, 1975
USS Yorktown collision.jpg
Tàu Bezzavetny của Liên Xô đâm vào tàu USS Yorktown, 1988
West and East Germans at the Brandenburg Gate in 1989.jpg
Bức tường Berlin sụp đổ, 1989
1991 coup attempt1.jpg
Xe tăng tại Quảng trường Đỏ trong Đảo chính tháng 8, 1991

Chiến tranh Lạnh là thời kỳ căng thẳng địa chính trị giữa Liên Xô cùng đồng minh (Khối Đông) và Hoa Kỳ cùng đồng minh (Khối Tây) sau Chiến tranh thế giới thứ Hai. Các nhà sử học không hoàn toàn thống nhất về thời điểm bắt đầu và kết thúc, nhưng nhìn chung giai đoạn này kéo dài từ lúc học thuyết Truman ra đời (12 tháng 3 năm 1947) đến khi Liên Xô tan rã (26 tháng 12 năm 1991).[1] Sở dĩ gọi là "lạnh" bởi không có giao tranh quy mô lớn trực tiếp giữa hai siêu cường mà mỗi bên chỉ hỗ trợ những cuộc xung đột địa bàn lớn gọi là chiến tranh ủy nhiệm. Tình trạng đối đầu xuất phát từ tham vọng tranh giành sức ảnh hưởng về ý thức hệ và địa chính trị trên toàn cầu của cả hai sau mối liên minh tạm thời thành công với thắng lợi trước phe Trục vào năm 1945.[2] Bên cạnh phát triển vũ khí hạt nhân và triển khai quân sự thông thường, cuộc đấu vì thế thống trị còn được thể hiện qua những phương thức gián tiếp như chiến tranh tâm lý, hoạt động tuyên truyền, tình báo, cấm vận, ganh đua tại những sự kiện thể thao và cạnh tranh về công nghệ như Chạy đua Không gian.

Khối Tây dẫn đầu là Hoa Kỳ và các quốc gia Thế giới thứ Nhất khác mà nhìn chung dân chủ tự do nhưng bị ràng buộc với một mạng lưới các nước chuyên chế mà đa phần là cựu thuộc địa của họ.[3] Liên Xô và Đảng Cộng sản nước này lãnh đạo Khối Đông đồng thời có tầm ảnh hưởng khắp Thế giới thứ Hai. Chính phủ Hoa Kỳ hỗ trợ các chính phủ cánh hữu cùng những cuộc nổi dậy, trong khi chính phủ Liên Xô tài trợ các đảng cộng sản và những cuộc cách mạng trên thế giới. Sau khi hầu hết các nước thuộc địa giành độc lập vào thời kỳ 1945–1960 thì nơi đây đã biến thành chiến trường Thế giới thứ Ba của Chiến tranh Lạnh.

Giai đoạn đầu tiên của Chiến tranh Lạnh bắt đầu không lâu sau khi Chiến tranh thế giới thứ Hai kết thúc năm 1945. Hoa Kỳ sáng lập liên minh quân sự NATO vào năm 1949 trong nỗi e sợ Liên Xô tấn công và gọi chính sách toàn cầu đối đầu Liên Xô của họ là ngăn chặn. Hành động phản ứng của Liên Xô là thành lập Khối Warszawa vào năm 1955. Các cuộc khủng hoảng lớn giai đoạn này gồm Phong tỏa Berlin 1948–49, Nội chiến Trung Quốc 1927–1949, Chiến tranh Triều Tiên 1950–1953, Cách mạng Hungary 1956, Khủng hoảng Suez 1956, Khủng hoảng Berlin 1961, và Khủng hoảng Tên lửa Cuba 1962. Hoa Kỳ và Liên Xô cạnh tranh tầm ảnh hưởng ở Mỹ Latinh, Trung Đông, các nước châu Á và châu Phi phi thực dân.

Sau Khủng hoảng Tên lửa Cuba, một giai đoạn mới bắt đầu chứng kiến sự chia rẽ giữa Liên Xô và Trung Quốc làm phức tạp các mối quan hệ trong khối Cộng sản, trong khi đồng minh Pháp của Hoa Kỳ bắt đầu đòi thêm quyền tự chủ. Liên Xô xâm lược Tiệp Khắc để dập tắt Mùa xuân Praha 1968 còn Hoa Kỳ vấp phải tình trạng hỗn độn trong nước từ phong trào dân quyền và phản đối Chiến tranh Việt Nam. Thời kỳ 1960–70 nổi lên phong trào hòa bình quốc tế từ những người dân yêu chuộng hòa bình trên khắp thế giới. Các hành động phản đối thử nghiệm vũ khí hạt nhân và ủng hộ giải trừ hạt nhân diễn ra bên cạnh những cuộc biểu tình chống chiến tranh quy mô lớn. Sang đến thập niên 1970, cả hai bên bắt đầu tính đến hòa bình và an ninh, mở ra một thời kỳ hòa hoãn chứng kiến các cuộc Đàm phán Hạn chế Vũ khí Chiến lược cùng mối quan hệ của Hoa Kỳ với Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa sắm vai đối trọng chiến lược với Liên Xô. Một số chế độ Mác-xít tự xưng ra đời ở Thế giới thứ Ba trong nửa sau thập niên 1970, bao gồm Cộng hòa Nhân dân Angola, Cộng hòa Nhân dân Mozambique, Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Ethiopia, Campuchia Dân chủ, Cộng hòa Dân chủ Afghanistan, và Cộng hòa Nicaragua.

Thập niên 1970 trôi qua cũng là lúc hòa hoãn kết thúc với Chiến tranh Liên Xô–Afghanistan năm 1979. Đầu thập niên 1980 là một giai đoạn căng thẳng leo thang khác. Hoa Kỳ gia tăng áp lực kinh tế, quân sự, ngoại giao lên Liên Xô trong lúc nước này đang trải qua sự trì trệ về kinh tế. Vào giữa thập niên 1980, nhà lãnh đạo mới của Liên Xô Mikhail Gorbachev đã giới thiệu những cải cách tự do hóa là glasnost (công khai, 1985), perestroika (cải tổ, 1987) và chấm dứt sự can thiệp của Liên Xô ở Afghanistan. Sức ép đòi chủ quyền quốc gia ngày càng lớn hơn ở Đông Âu và Gorbachev từ chối tiếp tục hỗ trợ quân sự những chính phủ này.

Vào năm 1989, sự sụp đổ của Bức màn Sắt sau cuộc dã ngoại toàn Âu cùng một làn sóng cách mạng hòa bình đã lật đổ hầu hết chính phủ cộng sản của Khối Đông (ngoại trừ Romania và Afghanistan). Đảng Cộng sản Liên Xô cũng đánh mất năng lực kiểm soát trong nước và bị cấm sau nỗ lực đảo chính bất thành vào tháng 8 năm 1991. Sự kiện này dẫn đến hệ quả Liên Xô chính thức tan rã vào tháng 12 năm đó, các nước cộng hòa cấu thành Liên Xô tuyên bố độc lập, và các chính quyền cộng sản trên hầu khắp châu Á và châu Phi sụp đổ. Hoa Kỳ còn lại là siêu cường duy nhất trên thế giới.

Chiến tranh Lạnh cùng những sự kiện của nó đã để lại một di sản quan trọng. Cuộc chiến thường được nhắc đến trong văn hóa đại chúng, nhất là liên quan đến đề tài gián điệp và hiểm họa chiến tranh hạt nhân.

Chiến tranh thế giới thứ Hai kết thúc (1945–1947)

Các hội nghị thời chiến bàn về châu Âu hậu chiến

Hậu thế chiến, phe Đồng Minh bất đồng về việc phân chia châu Âu.[4] Mỗi bên một ý trong vấn đề thiết lập và duy trì an ninh.[4] Một số học giả dám chắc Đồng Minh phương Tây khao khát một hệ thống an ninh mà ở đó chính quyền dân chủ càng phổ biến càng tốt cho phép các quốc gia giải quyết mâu thuẫn một cách hòa bình thông qua các tổ chức quốc tế.[5] Một số thì lưu ý phương Tây đã chia rẽ trong tầm nhìn thế giới mới. Thắng lợi về quân sự của Roosevelt ở châu Âu và châu Á, uy thế kinh tế toàn cầu của Hoa Kỳ, và một tổ chức hòa bình thế giới ra đời đã đảm bảo sự tồn tại của Đế quốc Anh cũng như nền độc lập của các nước Đông và Trung Âu đóng vai vùng đệm giữa Anh và Liên Xô.[6]

Winston Churchill, Franklin D. Roosevelt, và Joseph Stalin tại Hội nghị Yalta, 1945

Liên Xô tìm cách chi phối công việc nội bộ của các nước láng giềng.[4][7] Trong chiến tranh, Stalin từng lập ra những trung tâm đào tạo đặc biệt cho những người cộng sản ở nhiều nước để họ có thể làm thành lực lượng cảnh sát mật trung thành với Moskva ngay khi Hồng Quân tiếp quản. Các đặc vụ Liên Xô kiểm soát truyền thông, nhất là phát thanh, rồi mau chóng trấn áp mọi tổ chức dân sự độc lập và các đảng chính trị đối địch.[A] Stalin cũng mưu cầu hòa bình tiếp nối với Anh và Mỹ, kỳ vọng tập trung phát triển kinh tế và tái thiết trong nước.[8]

Trong mắt Hoa Kỳ, Stalin có vẻ là một đồng minh tiềm năng giúp họ hoàn thành những mục tiêu, song ngược lại với Anh thì Stalin tỏ ra là mối đe dọa lớn nhất cản trở chương trình nghị sự của họ. Khi mà Liên Xô đã chiếm đóng hầu hết Đông và Trung Âu, Stalin đang nắm lợi thế và hai lãnh đạo phương Tây đều giành giật thiện cảm của Stalin.

Khác biệt giữa Roosevelt và Churchill dẫn đến những cách ứng phó bất nhất với Liên Xô. Tháng 10 năm 1944, Churchill đến Moskva và đề nghị "thỏa thuận phần trăm" chia Đông Âu thành các vùng ảnh hưởng tương ứng, trao cho Stalin quyền thế ở Romania, Hungary, Bulgaria còn Churchill giành phần Hy Lạp. Stalin chấp nhận đề nghị này. Tại Hội nghị Yalta tháng 2 năm 1945, Roosevelt lại ký một thỏa thuận riêng với Stalin về châu Á và từ chối hỗ trợ Churchill vấn đề Ba Lan và bồi thường.[6] Cuối cùng Roosevelt tán thành thỏa thuận phần trăm[9][10] song dường như không có sự đồng thuận vững chắc trong công tác dàn xếp châu Âu hậu chiến tranh.[11]

Tại Hội nghị Quebec lần hai, một hội nghị quân sự cấp cao diễn ra ở thành phố Quebec từ ngày 12 đến ngày 16 tháng 9 năm 1944, Churchill và Roosevelt đã đi đến nhất trí về một số vấn đề, trong đó có một kế hoạch cho nước Đức dựa theo kiến nghị ban đầu của Henry Morgenthau Jr. Churchill thảo văn kiện có ý "loại bỏ những ngành công nghiệp chiến tranh ở Ruhr và Saar ... hướng tới chuyển đổi Đức thành một nước thôn quê và nông nghiệp căn bản". Tuy nhiên kế hoạch chia cắt Đức thành vài nước độc lập không còn.[B] Vào ngày 10 tháng 5 năm 1945, Tổng thống Hoa Kỳ Truman ký chỉ thị chiếm đóng JCS 1067 có hiệu lực hai năm và được Stalin nồng nhiệt hoan nghênh. Chỉ thị này lệnh cho lực lượng Hoa Kỳ chiếm đóng "... không làm những việc giúp kinh tế Đức phục hồi".[12]

Một số nhà sử học tranh luận rằng Chiến tranh Lạnh bắt đầu khi Mỹ tự mình đàm phán hòa bình với viên tướng SS Karl Wolff ở miền bắc nước Ý. Việc Liên Xô bị gạt ra rìa dẫn tới màn đối đáp căng thẳng giữa Roosevelt và Stalin. Wolff, một tội phạm chiến tranh, xem ra đã được chỉ huy Sở Công tác Chiến lược (OSS) và giám đốc Cục Tình báo Trung ương (CIA) tương lai Allen Dulles đảm bảo miễn tội tại tòa án Nuremberg khi họ gặp nhau vào tháng 3 năm 1945. Wolff và thuộc hạ được cho là đã hỗ trợ Chiến dịch Unthinkable, một kế hoạch xâm lược Liên Xô bí mật mà Churchill khi đó ủng hộ.[13][14][15]

Tháng 4 năm 1945, Tổng thống Hoa Kỳ Roosevelt qua đời và Phó Tổng thống Harry S. Truman lên kế nhiệm. Truman không tin tưởng Stalin và tìm kiếm tư vấn từ một nhóm chuyên gia hàng đầu về chính sách đối ngoại. Cả Churchill lẫn Truman đều phản đối việc Liên Xô hậu thuẫn chính phủ Lublin, đối thủ của chính phủ Ba Lan lưu vong ở Luân Đôn đã cắt đứt quan hệ với Liên Xô.[16]

Sau chiến thắng năm 1945, Liên Xô chiếm đóng Đông và Trung Âu[11] trong khi lực lượng phương Tây duy trì đông đảo ở Tây Âu. Tại Đức và Áo; Pháp, Anh, Liên Xô và Hoa Kỳ lập ra các khu chiếm đóng và một khuôn khổ lỏng lẻo cho thực trạng bốn cường quốc quản lý.[17]

Hội nghị Đồng Minh 1945 ở San Francisco đã thành lập Liên Hợp Quốc (UN) nhằm duy trì hòa bình thế giới song năng lực cưỡng chế của Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc lại dễ dàng bị vô hiệu bởi quyền phủ quyết của các thành viên.[18] Vì lẽ đó Liên Hợp Quốc về cơ bản đã biến thành một diễn đàn trao đổi luận điệu khiêu khích thiếu tích cực và Liên Xô xem đó gần như chỉ là sân khấu tuyên truyền.[19]

Hội nghị Potsdam và Nhật Bản đầu hàng

Tại Hội nghị Potsdam khai màn cuối tháng 7 nổi lên những bất đồng nghiêm trọng về tương lai nước Đức cũng như phần còn lại của Đông và Trung Âu.[20] Liên Xô hối thúc đáp ứng yêu cầu của họ tại Yalta là 20 tỷ đô-la phí bồi thường chiến tranh từ các khu chiếm đóng. Hoa Kỳ và Anh từ chối thu xếp một khoản tiền mà thay vào đó cho phép Liên Xô dỡ bỏ một số ngành công nghiệp khỏi khu chiếm đóng của họ.[21] Ác cảm và ngôn từ hiếu chiến của các bên tham gia đã xác minh thái độ ngờ vực lẫn nhau về ý đồ thù địch và nhằm gia cố vị thế.[22] Ở đó Truman cho Stalin hay rằng Hoa Kỳ đã sở hữu một vũ khí uy lực mới.[23]

Hoa Kỳ mời Anh tham gia dự án bom nguyên tử song giấu kín điều này với Liên Xô. Stalin biết người Mỹ đang chế tạo bom nguyên tử và tỏ thái độ bình thản trước tin này.[23] Một tuần sau khi hội nghị Potsdam kết thúc, Hoa Kỳ ném bom Hiroshima và Nagasaki. Không lâu sau đó, Stalin phản đối giới chức Hoa Kỳ khi Truman mời chào Liên Xô chút ít ảnh hưởng thực tế ở nước Nhật đang bị chiếm đóng.[24] Stalin còn tức giận bởi hành động ném bom nguyên tử, gọi Hoa Kỳ là "siêu dã man" và tuyên bố "thế cân bằng đã bị phá vỡ...Điều đó không thể được." Chính quyền Truman dự định lợi dụng chương trình vũ khí hạt nhân đang tiến hành để gây sức ép lên Liên Xô trong quan hệ quốc tế.[23]

Sau thế chiến, Hoa Kỳ và Anh sử dụng lực lượng quân sự ở Hy Lạp và Triều Tiên để thủ tiêu những lực lượng và chính quyền bản xứ bị xem là cộng sản. Lyuh Woon-Hyung, người hoạt động bí mật vào thời Nhật Bản chiếm đóng, đã chỉ đạo thành lập những ủy ban trên khắp Triều Tiên nhằm phối hợp chuyển giao sang nền độc lập. Sau khi Nhật Bản đầu hàng vào ngày 28 tháng 8, những ủy ban này đã lập nên chính phủ quốc gia Triều Tiên lâm thời và đặt tên nó là Cộng hòa Nhân dân Triều Tiên (PRK).[25][26] Vào ngày 8 tháng 9 năm 1945, Hoa Kỳ đưa quân đội đến Triều Tiên rồi thành lập Chính phủ Quân sự Lục quân Hoa Kỳ ở Triều Tiên (USAMGK) để cai quản lãnh thổ Triều Tiên phía nam vĩ tuyến 38 bắc. Chính phủ Cộng hòa Nhân dân Triều Tiên bị cấm. Chỉ huy quân đội, Trung tướng John R. Hodge phát biểu "một trong những nhiệm vụ của chúng ta là đập tan chính quyền Cộng sản này."[27] Kế đến, Hoa Kỳ hỗ trợ những chính quyền Hàn Quốc độc tài trị vì đến thập niên 1980, khởi đầu với Tổng thống Syngman Rhee.[28][29][30]

Khối Đông hình thành

Vào đầu Thế chiến II, Liên Xô đã sắp đặt nền móng cho Khối Đông bằng việc xâm lược rồi thôn tính một số lãnh thổ làm nên các nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô viết và bằng thỏa thuận với Đức Quốc xã trong Hiệp ước Molotov–Ribbentrop. Những lãnh thổ này bao gồm miền đông Ba Lan (sát nhập vào CHXHCNXV ByelorussiaCHXHCNXV Ukraina),[31] Latvia (CHXHCNXV Latvia),[32][33] Estonia (CHXHCNXV Estonia),[32][33] Litva (CHXHCNXV Litva),[32][33] một phần miền đông Phần Lan (CHXHCNXV Karelia-Phần Lan) và miền đông Romania (CHXHCNXV Moldavia).[34]

Lãnh thổ Đông và Trung Âu do quân đội Liên Xô giải phóng được thêm vào Khối Đông chiếu theo Thỏa thuận Phần trăm giữa Churchill và Stalin. Liên Xô biến những địa bàn chiếm đóng thành các quốc gia vệ tinh,[35] như:

Các chế độ kiểu Xô viết ra đời trong Khối Đông không chỉ sao chép kinh tế chỉ huy mà còn vận dụng những biện pháp nặng tay của Stalin và cảnh sát mật Liên Xô nhằm trấn áp phe đối lập tiềm năng và thực tế.[40] Ở châu Á trong tháng cuối cùng của thế chiến, Hồng Quân tràn qua Mãn Châu và chiếm cứ lãnh thổ Triều Tiên rộng lớn phía bắc vĩ tuyến 38.[41]

Bộ Dân ủy Nội vụ (NKVD) do Lavrentiy Beriya đứng đầu giám sát việc thành lập những hệ thống cảnh sát mật kiểu Xô viết trong Khối Đông nhằm đập tan mọi hành vi chống cộng.[42] Khi thấy xuất hiện dấu hiệu độc lập dù là nhỏ nhất trong khối, Stalin áp dụng cách thức như đã làm với những đối thủ trong nước trước chiến tranh: tước quyền, xét xử, cầm tù, và trong một số trường hợp là hành quyết.[43]

Thủ tướng Anh Winston Churchill lo sợ với số lượng quân khổng lồ triển khai ở châu Âu lúc chiến tranh kết thúc cùng sự không đáng tin của Stalin thì Liên Xô là một mối đe dọa đến Tây Âu.[44] Sau Chiến tranh thế giới thứ Hai, Hoa Kỳ đã chỉ dẫn giới lãnh đạo Tây Âu lập ra lực lượng an ninh mật của riêng họ nhằm ngăn chặn nguy cơ bị lật đổ và điều này đã mở ra Chiến dịch Gladio.[45]

Học thuyết Truman và chính sách ngăn chặn (1947–1953)

Bức màn Sắt, Iran, Thổ Nhĩ Kỳ, Hy Lạp

Tàn tích của "bức màn sắt" ở Cộng hòa Séc

Cuối tháng 2 năm 1946, "Long Telegram" (Bức điện Dài) của George F. Kennan gửi về Washington từ Moskva đã cổ vũ phương châm cứng rắn đối với Liên Xô, điều sẽ trở thành nền tảng cho chiến lược đối phó Liên Xô của Mỹ trong Chiến tranh Lạnh. Chính quyền Truman lĩnh hội bức điện vì Stalin thất hứa những vấn đề về châu Âu và Iran. Sau cuộc xâm lược Iran của Anh và Liên Xô trong Thế chiến II, Hồng Quân chiếm đóng miền bắc còn Anh là miền nam nước này.[46] Anh và Hoa Kỳ từng khai thác Iran làm điểm tiếp tế cho Liên Xô và Đồng Minh tán thành rút quân khỏi Iran trong vòng sáu tháng sau khi chiến sự chấm dứt.[46] Tuy nhiên khi thời hạn đến, Liên Xô vẫn nán lại Iran dưới vỏ bọc Cộng hòa Nhân dân AzerbaijanCộng hòa Mahabad.[47] Vào ngày 5 tháng 3 năm 1946, cựu Thủ tướng Anh Winston Churchill trình bày bài phát biểu "Bức màn Sắt" nổi tiếng ở Fulton, Missouri[48] có nội dung kêu gọi một liên minh Anh-Mỹ đối đầu Liên Xô, bên mà Churchill cáo buộc đã lập ra một "bức màn sắt" chia cắt châu Âu từ "StettinBaltic đến TriesteAdriatic".[35][49]

Một tuần sau vào ngày 13 tháng 3, Stalin đáp trả mạnh mẽ bài phát biểu, nói rằng Churchill có thể so với Hitler chừng nào ông ta còn ủng hộ quan niệm các nước nói tiếng Anh ưu việt về chủng tộc và rằng tuyên bố đó là "một lời kêu gọi chiến tranh chống Liên Xô". Lãnh tụ Liên Xô cũng phủ nhận cáo buộc Liên Xô đang tăng cường kiểm soát các nước trong phạm vi ảnh hưởng. Stalin phản biện không có gì lạ khi "Liên Xô vì tương lai an toàn đang cố gắng đảm bảo sự trung thành của chính quyền những nước này với Liên Xô".[50][51]

Liên minh quân sự châu Âu
Liên minh kinh tế châu Âu

Tháng 9, đại sứ Liên Xô gửi đến Hoa Kỳ bức điện Novikov với người ủy nhiệm và đồng tác giả là Vyacheslav Molotov, trong đó mô tả Hoa Kỳ là gã tư bản độc quyền đang phát triển năng lực quân sự "để chuẩn bị điều kiện cho việc giành lấy ưu thế toàn cầu trong cuộc chiến mới".[52] Vào ngày 6 tháng 9 năm 1946, Ngoại trưởng Hoa Kỳ James F. Byrnes có bài phát biểu ở Đức phản bác Kế hoạch Morgenthau (một đề nghị chia cắt và phi công nghiệp hóa nước Đức hậu chiến) và cảnh báo Liên Xô rằng Hoa Kỳ có ý duy trì quân đội hiện diện ở châu Âu vô hạn định.[53] Như Byrnes thừa nhận một tháng sau: "Điểm chính yếu trong chương trình của chúng ta là chinh phục nhân dân Đức ... đó là màn đấu trí giữa chúng ta và người Nga ..."[54] Tháng 12, Liên Xô đồng ý rút quân khỏi Iran sau áp lực không ngừng của Mỹ, một thành công ban đầu của sách lược ngăn chặn.

Đến năm 1947, Tổng thống Hoa Kỳ Harry S. Truman đã giận dữ vì Liên Xô chống đối những yêu cầu của Hoa Kỳ ở Iran, Thổ Nhĩ Kỳ, Hy Lạp cùng Kế hoạch Baruch về vũ khí hạt nhân.[55] Tháng 2 năm 1947, chính phủ Anh thông báo không còn có thể hỗ trợ tài chính cho Vương quốc Hy Lạp trong cuộc nội chiến của nước này chống khởi nghĩa do Cộng sản cầm đầu.[56] Chính phủ Hoa Kỳ phản ứng trước thông báo này bằng việc thông qua chính sách ngăn chặn[57] với mục tiêu chặn đứng sự bành trướng của chủ nghĩa cộng sản. Truman phát biểu kêu gọi phân phát khoản tiền 400 triệu đô-la nhằm can thiệp vào cuộc chiến và vén màn Học thuyết Truman nhìn nhận đây là cuộc đấu giữa những người tự do và những chế độ toàn trị.[57] Các nhà hoạch định chính sách Hoa Kỳ cáo buộc Liên Xô âm mưu chống lại phe bảo hoàng Hy Lạp nhằm mở rộng tầm ảnh hưởng ngay cả khi Stalin đã bảo Đảng Cộng sản hợp tác với chính phủ do Anh hậu thuẫn.[58]

Học thuyết Truman được đề ra đã đánh dấu sự đồng lòng bước đầu giữa những người dân chủcộng hòa Hoa Kỳ về chính sách quốc phòng và đối ngoại tập trung vào ngăn chặn và răn đe, điều này hạ mức trong và sau Chiến tranh Việt Nam nhưng lặp lại tiếp đó.[59] Các đảng bảo thủ và ôn hòa ở châu Âu cùng những người dân chủ xã hội ủng hộ gần như vô điều kiện liên minh phương Tây,[60] trong khi những người cộng sản châu Âuchâu Mỹ được KGB tài trợ và tham gia vào các hoạt động tình báo của KGB[61] thì gắn bó với đường lối của Moskva (nhưng bất đồng bắt đầu xuất hiện sau năm 1956). Sự phê bình chính sách của Hoa Kỳ đến từ các nhà hoạt động chống chiến tranh Việt Nam, tổ chức Vận động Giải trừ Hạt nhân (CND) và phong trào chống hạt nhân.[62]

Tham khảo

  1. Robert Service, The End of the Cold War: 1985-1991 (Macmillan, 2015)
  2. Sempa, Francis (ngày 12 tháng 7 năm 2017), Geopolitics: From the Cold War to the 21st Century, Routledge, ISBN 978-1-351-51768-3
  3. G. Jones 2014, tr. 176–79.
  4. a b c Gaddis 2005, tr. 13–23.
  5. Gaddis 1990, tr. 156.
  6. a b Plokhy 2010.
  7. Gaddis 1990, tr. 176.
  8. Heller 2006, tr. 27: From the Soviet perspective, a postwar period of peace and reconstruction was indispensable. Therefore, the continuation of cooperation and peaceful relations with its wartime allies, the United States and Great Britain, was greatly to be desired.
  9. Carlton 2000.
  10. Todd 2016, tr. 105–11.
  11. a b Gaddis 2005, tr. 21.
  12. Jonas 1985, tr. 270.
  13. von Lingen 2013, tr. 6, 81–90.
  14. Rev 2010.
  15. Peck 2017, tr. 2.
  16. Zubok & Pleshakov 1996, tr. 94.
  17. Gaddis 2005, tr. 22.
  18. Glennon 2003.
  19. Garthoff 1994, tr. 401.
  20. Byrd 2003.
  21. Moss 1993, tr. 256.
  22. Wood 2005, tr. 62.
  23. a b c Gaddis 2005, tr. 24–26.
  24. LaFeber 2002, tr. 28.
  25. Hart-Landsberg, Martin, Korea: Division, Reunification, & U.S. Foreign Policy, Monthly Review Press (1998), p. 65
  26. Cumings, Bruce, The Origins of the Korean War, Liberation and the Emergence of Separate Regimes, 1945–1947, Princeton University Press (1981), p. 88
  27. Cumings, Bruce, "The Autumn Uprising," The Origins of the Korean War, Liberation and the Emergence of Separate Regimes, 1945–1947, Princeton University Press(1981)
  28. Buzo, Adrian (2002), The Making of Modern Korea, London: Routledge, ISBN 0-415-23749-1
  29. Cumings, Bruce (2010), The Korean War: A History, tr. 111
  30. Sydney Morning Herald, 15 Nov. 2008, "South Korea Owns Up to Brutal Past Lưu trữ 28 tháng 7 2020 tại Wayback Machine"
  31. Roberts 2006, tr. 43.
  32. a b c Wettig 2008, tr. 21.
  33. a b c Senn 2007.
  34. Roberts 2006, tr. 55.
  35. a b Schmitz 1999.
  36. Cook 2001, tr. 17.
  37. Grenville 2005, tr. 370–71.
  38. van Dijk 2008, tr. 200.
  39. Wettig 2008, tr. 96–100.
  40. Roht-Arriaza 1995, tr. 83.
  41. Gaddis 2005, tr. 40.
  42. Gaddis 2005, tr. 34.
  43. Gaddis 2005, tr. 100.
  44. Fenton 1998.
  45. Editors.
  46. a b Sebestyen 2014.
  47. Kinzer 2003, tr. 65–66.
  48. Gaddis 2005, tr. 94.
  49. Harriman 1987–1988.
  50. Marxists Internet Archive.
  51. McCauley 2008, tr. 143.
  52. Kydd 2018, tr. 107.
  53. Gaddis 2005, tr. 30.
  54. Morgan.
  55. Milestones: 1945–1952.
  56. Iatrides 1996, tr. 373–76.
  57. a b Gaddis 2005, tr. 28–29.
  58. Gerolymatos 2017, tr. 195–204.
  59. Paterson 1989, tr. 35, 142, 212.
  60. Moschonas 2002, tr. 21.
  61. Andrew & Mitrokhin 2000, tr. 276.
  62. Crocker, Hampson & Aall 2007, tr. 55.


Lỗi chú thích: Đã tìm thấy thẻ <ref> với tên nhóm “upper-alpha”, nhưng không tìm thấy thẻ tương ứng <references group="upper-alpha"/> tương ứng, hoặc thẻ đóng </ref> bị thiếu