Mục từ này cần được bình duyệt
Bôlivia
Phiên bản vào lúc 13:26, ngày 5 tháng 1 năm 2021 của Minhpc (Thảo luận | đóng góp) (Tạo trang mới với nội dung “{{mới}} (A. Bolivia, Plurinational State of Bolivia) Tên gọi chính thức: Nhà nước đa dân tộc Bôlivia Tên gọi theo ngôn ngữ chính…”)
(khác) ← Phiên bản cũ | xem phiên bản hiện hành (khác) | Phiên bản mới → (khác)
(A. Bolivia, Plurinational State of Bolivia)

Tên gọi chính thức: Nhà nước đa dân tộc Bôlivia Tên gọi theo ngôn ngữ chính thức (tiếng Tây Ban Nha): Estado Plurinacional de Bolivia Diện tích: 1.098.581 km2 Dân số: 11.306.341người (2018). Thủ đô: Xucrê (Sucre), nhưng chính phủ đóng ở La Paz

một trong số hai quốc gia ở gần trung tâm Nam Mỹ và không giáp biển. Lãnh thổ nằm trong phạm vi từ vĩ tuyến 9°40'B đến 22°52'B và kinh tuyến 57°27’T đến 69°38'T.

Thời kì tiền Colombus, B là một phần của Đế chế Tiwanaku (550 – 1000) và Đế chế Inca (1438 – 1532). Đây là thời kỳ xuất hiện nhiều công trình kiến trúc, thủy lợi, điêu khắc, kỹ thuật sản xuất nông nghiệp, thủ công nghiệp... đạt trình độ kỹ thuật cao hình thành nền văn minh Andes. Vào thế kỷ thứ VI, Đế chế Tiwanaku đã xây dựng đô thị Tiahuanaco ở phía nam hồ Titicaca có sức chứa khoảng 15.000 – 30.000 người, ở đây có các công trình nổi tiếng như đài tế lễ, kim tự tháp Acapana, đền thờ mặt trời Kalasasaya. Công cuộc chinh phục vùng núi Andes của Francisco Pizarro (người Tây Ban Nha) trong những năm 1526-1572 đã làm cho Đế chế Inca hùng mạnh nhất Nam Mỹ bị diệt vong và khởi đầu cho quá trình biến vùng đất này thành thuộc địa của Tây Ban Nha. Trong thời kì thuộc địa, lãnh thổ B mở rộng về phía đông và phía bắc được gọi là Charcas. Ngày 6 tháng 8 năm 1825, Charcas giành được độc lập khỏi thuộc địa của Tây Ban Nha lấy tên là Cộng hòa Bolivia. Tên gọi B được đặt theo tên của nhà cách mạng Simón Bolívar, người đã lãnh đạo nhân dân các nước Vênêxuêla, Côlômbia, Pêru, Bôlivia, Êcuađo, Panama giành được độc lập khỏi thuộc địa Tây Ban Nha. Năm 2009, Cộng hòa Bôlivia đã có những thay đổi về hiến pháp nhằm thừa nhận tính đa dân tộc và nâng cao vị thế của các dân tộc bản địa nên đã đổi tên thành Nhà nước Đa dân tộc Bôlivia.

Lãnh thổ B được coi như cầu nối giữa hệ thống núi cao Andes với sơn nguyên Braxin và đồng bằng Amazon. Địa hình phân hóa rõ rệt từ tây nam đến đông bắc thành 2 vùng: vùng Andes ở phía tây và tây nam chiếm 41% diện tích và vùng đồng bằng Los Llanos ở phía bắc và phía đông chiếm 59% diện tích. Vùng Andes gồm các dãy núi Cordillera Oriental và khối núi Altiplano cao trung bình 3800 - 4000m, chạy theo hướng bắc nam. Trong vùng có nhiều đỉnh núi cao hơn 6000m, đỉnh Nevado Sajama cao nhất B (6.542 m). Phía tây của vùng này là bồn địa rộng lớn với đáy là hồ muối Uyuni Saltpan. Vùng đồng bằng Llanôt gồm nhiều đồi thấp, thung lũng và đồng bằng rộng được bao phủ bởi hệ sinh thái rừng rậm nhiệt đới và rừng thưa. Vùng này có độ cao dưới 400m và giảm dần về phía bắc – đông bắc xuống đồng bằng Amazon.

Khí hậu B phân hóa đa dạng gồm ba kiểu chính: phía đông nam có kiểu sa van nhiệt đới, phía bắc đông bắc có kiểu nhiệt đới gió mùa và khu vực núi cao ở tây nam có kiểu bán hoang mạc nhiệt đới núi cao. Nhiệt độ không khí trung bình vùng núi cao phía tây vào tháng 7 từ 3 đến 7°C, vào tháng 1 từ 9 đến 11°C; biên độ ban ngày của nhiệt độ không khí thường đạt tới 40 - 50°C. Vùng đồng bằng có nhiệt độ không khí trung bình tháng 7 khoảng 22°C và tháng 1 khoảng 24°C. Lượng mưa trung bình ở phía bắc là 1800mm, giảm dần xuống phía nam còn 9000mm và khu vực núi cao phía tây nam chỉ còn dưới 500mm. Các sông lớn nhất gồm: Benni, Mamore, Xan Maktin, Guapore, chảy theo hướng từ nam-tây nam đến bắc-đông bắc nhập vào dòng chính của sông Amazon.

Tài nguyên thiên nhiên gồm có nhiều loại khoáng sản như vàng, bạc, thiếc, kẽm, vonfram, antimon, chì, lithium, muối với trữ lượng lớn. Ngoài ra, còn có nguồn thủy năng, khí đốt tự nhiên, dầu mỏ, lâm sản. Địa hình hiểm trở, vị trí địa lý không giáp biển và nằm sâu trong nội địa nên gặp nhiều khó khăn đối với phát triển kinh tế và quan hệ với thế giới. Từ sau khi giành được độc lập khỏi đế quốc Tây Ban Nha năm 1825 cho đến trước năm 1982, thể chế hành chính của B mang tính độc tài phong kiến. Thập niên 1970, trào lưu Dân tộc và Cánh tả có xu hướng phát triển mạnh đã có nhiều hình thức đấu tranh chống lại nền chính trị độc tài. Đến năm 1982, thể chế hành chính mới được thành lập dựa vào bầu cử dân chủ. Từ năm 2005 đến 2019, chính phủ do lãnh tụ đảng cánh tả lãnh đạo đã khôi phục và phát huy tính đa dân tộc và tính bản địa. Hiện nay, thể chế hành chính được thành lập dựa trên nguyên tắc dân chủ đa đảng.

Dân cư B có nền văn hóa lâu đời và mang đậm bản sắc văn hóa dân cư vùng núi Andes. Phần lớn người B sinh sống chủ yếu ở các khu vực cao trên 3000m của vùng núi Andes. Các di tích lịch sử đã chứng minh rằng trước công nguyên khoảng hơn 5000 năm đã có các cộng đồng dân cư sinh sống xung quanh hồ Titicaca. Hiện nay ở B có 39 dân tộc bản địa, chiếm 20% dân số cả nước. Dân tộc bản địa sinh sống theo phạm vi lãnh thổ riêng gọi là Đất Cộng đồng Bản địa (Tierra Comunitaria de Origen - TCO). Hiến pháp B đã công nhận phạm vi lãnh thổ và cơ chế tự trị cho 84 TCO. Các giá trị văn hóa bản địa là nền tảng cho các quy định trong hiến pháp về quyền tự quản và tự trị đối với lãnh thổ tổ tiên của các dân tộc bản địa.

Dân số của B vào năm 1826 khoảng 997,4 nghìn người, đến 1950 là 2.704 nghìn người. Giai đoạn 1950 đến 2018 dân số tăng nhanh gấp hơn 4 lần. Tỉ lệ gia tăng dân số trung bình năm trong nửa cuối thế kỷ 20 trên 2,0%, đến đầu thế kỷ 21 có xu hướng giảm, năm 2018 là 1,6%. Cấu trúc tuổi của dân số trẻ, nhóm tuổi dưới 15 chiếm 31,34%, nhóm trên 64 tuổi chiếm 5,43% (2018). Phần lớn dân cư phân bố ở vùng núi cao phía tây của B.

Năm 2018 GDP (định danh) của B là 40,288 tỉ USD, xếp thứ 92 trên thế giới. Tốc độ tăng trưởng kinh tế 4,2% cao hơn mức trung bình của các quốc gia Nam Mỹ. Nền kinh tế chủ yếu vẫn dựa vào nông nghiệp và công nghiệp; tỉ trọng nông nghiệp, công nghiệp trong GDP tương ứng là 29,4% và 22% (2018).

Giai đoạn 1970 đến 2000, các ngành công nghiệp khai thác và dịch vụ bị suy thoái nên sản xuất nông nghiệp được đầu tư nhiều và phát triển nhanh đã góp phần cân bằng nền kinh tế. Sản lượng ngũ cốc từ 478,9 nghìn tấn tăng lên 2,32 triệu tấn. Đất sản xuất ngũ cốc tăng từ 444,7 nghìn ha lên 1,24 triệu ha, tốc độ tăng trưởng trung bình hàng năm là 2,58%. Nông sản chính là ngũ cốc (lúa mì, mạch, ngô) các loại đậu (đậu nành) mía, bông, côca, bò thịt, lợn và cừu. Trình độ sản xuất nông nghiệp vẫn còn thấp, kĩ thuật hiện đại chỉ được áp dụng ở một số trang trại lớn. Hầu hết các loại nông sản tiêu dùng nội địa, mặt hàng xuất khẩu chủ yếu là cô ca và dầu đậu nành.

Giá trị sản xuất công nghiệp chủ yếu từ công nghiệp khai khoáng. Công nghiệp khai thác khí đốt, bạc và kẽm là những ngành tạo ra giá trị chủ yếu trong GDP và cung cấp 60% giá trị hàng hóa xuất khẩu. B sản xuất được 21.510 triệu m3 khí đốt (2017) xếp thứ 32 và 1.228 tấn bạc (2017) xếp thứ 7 trên thế giới. Năm 2013, ngành công nghiệp khai khoáng tạo ra giá trị 3.386 triệu USD và thu hút 135.352 lao động. Hiện nay, ngành khai thác lithium ở Uyuni Saltpan đang tạo ra thế mạnh mới. Công nghiệp chế biến có các ngành dệt, may, gia công kim loại, chế biến thực phẩm có quy mô nhỏ nhằm cung cấp hàng hóa cho tiêu dùng trong nước. Ngành công nghiệp hóa lọc dầu mới được đầu tư phát triển ở vùng đông bắc.

Dịch vụ gồm các hoạt động thương mại, tài chính, hành chính công, du lịch. Quy mô và trình độ dịch vụ còn thấp. Ngành du lịch đã có xu hướng phát triển nhanh và đang trở thành ngành có giá trị cao. Tổng số khách du lịch của Bôlivia năm 2014 là 871.000 lượt người.

Tài liệu tham khảo

1. R.W. McСoll (General editor), Encyclopedia of World Geography, Facts On File, Inc, 2005, tr 930.

2. Timothy J. Kehoe, The Monetary and Fiscal History of Bolivia, 1960–2017, Federal Reserve Bank of Minneapolis Research Department Staff Report 579, February 2019.

3. https://www.britannica.com/place/Bolivia

4. Боли́вия, Большая российская энциклопедия, https://bigenc.ru/geography/text/4224650