Sửa đổi Vườn quốc gia Kon Ka Kinh
Chú ý: Bạn chưa đăng nhập và địa chỉ IP của bạn sẽ hiển thị công khai khi lưu các sửa đổi.
Bạn có thể tham gia như người biên soạn chuyên nghiệp và lâu dài ở Bách khoa Toàn thư Việt Nam, bằng cách đăng ký và đăng nhập - IP của bạn sẽ không bị công khai và có thêm nhiều lợi ích khác.
Các sửa đổi có thể được lùi lại. Xin hãy kiểm tra phần so sánh bên dưới để xác nhận lại những gì bạn muốn làm, sau đó lưu thay đổi ở dưới để hoàn tất việc lùi lại sửa đổi.
Bản hiện tại | Nội dung bạn nhập | ||
Dòng 44: | Dòng 44: | ||
VQG Kon Ka Kinh ngoài đa dạng về loài động, thực vật, còn phong phú về các kiểu hệ sinh thái rừng. Trong 33.146 ha đất có rừng, các kiểu sinh cảnh rừng trên núi trải rộng theo đai cao từ 700 - 1.748 m chiếm 80% diện tích của Vườn. Đặc biệt, hệ sinh thái rừng hỗn giao cây lá rộng - lá kim phân bố đến 2.000 ha. Đây là kiểu rừng chỉ thấy ở Kon Ka Kinh trong hệ thống rừng đặc dụng ở Việt Nam. Theo phân loại sinh thái phát sinh của Thái Văn Trừng (1998), thảm thực vật rừng của VQG Kon Ka Kinh gồm có các kiểu rừng chính: rừng kín thường xanh mưa ẩm á nhiệt đới núi thấp, rừng kín hỗn giao lá rộng - lá kim mưa ẩm á nhiệt đới núi thấp, rừng thường xanh mưa ẩm nhiệt đới. Bên cạnh đó là một diện tích rất đáng kể của rừng thứ sinh chịu tác động của con người, bao gồm rừng kín lá rộng nghèo kiệt, rừng kín phục hồi tái sinh sau đốt nương làm rẫy và khai thác. Ngoài ra, còn một tỉ lệ nhỏ các kiểu rừng le, nứa, rừng trồng, đất trống, trảng cỏ. | VQG Kon Ka Kinh ngoài đa dạng về loài động, thực vật, còn phong phú về các kiểu hệ sinh thái rừng. Trong 33.146 ha đất có rừng, các kiểu sinh cảnh rừng trên núi trải rộng theo đai cao từ 700 - 1.748 m chiếm 80% diện tích của Vườn. Đặc biệt, hệ sinh thái rừng hỗn giao cây lá rộng - lá kim phân bố đến 2.000 ha. Đây là kiểu rừng chỉ thấy ở Kon Ka Kinh trong hệ thống rừng đặc dụng ở Việt Nam. Theo phân loại sinh thái phát sinh của Thái Văn Trừng (1998), thảm thực vật rừng của VQG Kon Ka Kinh gồm có các kiểu rừng chính: rừng kín thường xanh mưa ẩm á nhiệt đới núi thấp, rừng kín hỗn giao lá rộng - lá kim mưa ẩm á nhiệt đới núi thấp, rừng thường xanh mưa ẩm nhiệt đới. Bên cạnh đó là một diện tích rất đáng kể của rừng thứ sinh chịu tác động của con người, bao gồm rừng kín lá rộng nghèo kiệt, rừng kín phục hồi tái sinh sau đốt nương làm rẫy và khai thác. Ngoài ra, còn một tỉ lệ nhỏ các kiểu rừng le, nứa, rừng trồng, đất trống, trảng cỏ. | ||
− | Rừng kín thường xanh mưa ẩm á nhiệt đới núi thấp là kiểu rừng có diện tích lớn nhất VQG, phân bố ở đai cao từ 900 m | + | Rừng kín thường xanh mưa ẩm á nhiệt đới núi thấp là kiểu rừng có diện tích lớn nhất VQG, phân bố ở đai cao từ 900 m hoặc1000 m trở lên. Thực vật trong kiểu rừng này tương đối đa dạng, thường chiếm ưu thế ở tầng ưu thế sinh thái, điển hình là các loài cây trong họ Giẻ, họ Sim, họ Re, họ Chè, họ Sau sau, họ Đỗ quyên, họ Mộc lan,... |
− | Ở những đỉnh cao trên 1.500 m, nơi có chế độ nhiệt thấp, khí hậu lạnh ẩm, quanh năm có gió mạnh, còn thường xuất hiện dạng rừng cằn. Đặc điểm của dạng rừng này là đường kính cây thường nhỏ trên dưới 10 cm, chiều cao cây thấp 10 - 15 m, thân hình cong queo, phân cành thấp, xung quanh thân bám đầy rêu và địa y. Dạng rừng này thường có mật độ cây/ha cao, nhưng trữ lượng thấp (trung bình 80 | + | Ở những đỉnh cao trên 1.500 m, nơi có chế độ nhiệt thấp, khí hậu lạnh ẩm, quanh năm có gió mạnh, còn thường xuất hiện dạng rừng cằn. Đặc điểm của dạng rừng này là đường kính cây thường nhỏ trên dưới 10 cm, chiều cao cây thấp 10 - 15 m, thân hình cong queo, phân cành thấp, xung quanh thân bám đầy rêu và địa y. Dạng rừng này thường có mật độ cây/ha cao, nhưng trữ lượng thấp (trung bình 80 m³/ha). |
Kiểu rừng hỗn giao lá rộng - lá kim thường phân bố ở đai cao 1.000 - 1.500 m. Trong kiểu rừng này, ngoài các loài cây trong ngành hạt kín, các loài cây trong ngành hạt trần cũng chiếm vị trí ưu thế trong một số lâm phần hỗn giao cây hạt kín và hạt trần. Tùy vào độ cao mà có các loài cây hạt trần cụ thể khác nhau: Các loài Hoàng đàn giả, Thông nàng mọc khá phổ biến ở độ cao từ 900 - 1.300m, trong khi loài Pơ mu lại chỉ phân bố tập trung ở độ cao từ 1.300 m trở lên và chủ yếu mọc tập trung ở sườn Đông Kon Ka Kinh. Chính vì vậy, các loài này đã hình thành nên các lâm phần hỗn giao đơn ưu, đa ưu, tạo nên kiểu rừng kín cây lá rộng, lá kim. | Kiểu rừng hỗn giao lá rộng - lá kim thường phân bố ở đai cao 1.000 - 1.500 m. Trong kiểu rừng này, ngoài các loài cây trong ngành hạt kín, các loài cây trong ngành hạt trần cũng chiếm vị trí ưu thế trong một số lâm phần hỗn giao cây hạt kín và hạt trần. Tùy vào độ cao mà có các loài cây hạt trần cụ thể khác nhau: Các loài Hoàng đàn giả, Thông nàng mọc khá phổ biến ở độ cao từ 900 - 1.300m, trong khi loài Pơ mu lại chỉ phân bố tập trung ở độ cao từ 1.300 m trở lên và chủ yếu mọc tập trung ở sườn Đông Kon Ka Kinh. Chính vì vậy, các loài này đã hình thành nên các lâm phần hỗn giao đơn ưu, đa ưu, tạo nên kiểu rừng kín cây lá rộng, lá kim. |